Bảo Lâm (Cao Bằng): Để người dân an tâm trong mùa mưa bão

Nguyễn Hùng | 30/09/2021, 15:26

(TN&MT) - Huyện vùng cao biên giới Bảo Lâm (tỉnh Cao Bằng) là địa phương thường bị ảnh hưởng bởi các loại hình thời tiết cực đoan mỗi khi mùa mưa bão tới, gây nên những thiệt hại về người, tài sản, hoa màu và các công trình hạ tầng kinh tế - xã hội. Trước thực tế đó, huyện đã chủ động xây dựng kế hoạch, triển khai đồng bộ các giải pháp, phương án phòng, chống thiên tai, đặc biệt là di dời người dân ở vùng nguy cơ sạt lở đến nơi an toàn, nhằm hạn chế thấp nhất thiệt hại do thiên tai gây ra.

Bảo Lâm là huyện vùng cao, biên giới, nằm ở phía Tây của tỉnh Cao Bằng. Nơi đây có địa hình ptương đối phức tạp với độ dốc lớn, chia cắt nhiều, đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) chiếm tỷ lệ trên 98%. Những năm gần đây, tình hình lũ quét, sạt lở đất, đá… trên địa bàn diễn biến hết sức phức tạp.

Nỗi lo của người dân mùa mưa bão

Cuối năm 2019, ông Chảo Phụ Nhàn, dân tộc Dao, ở xóm Nà Ca, thị trấn Pác Miầu, huyện Bảo Lâm đã dồn hết vốn liếng có được để mua đất và xây nhà mới. Gia đình ông Nhàn có 5 người, nhưng tất cả chỉ sống dựa vào thu nhập từ việc làm thuê và lên nương rẫy.

Tuy nhiên, hiện nhà ông Nhàn được xác định đang nằm trên mái ta luy dương của quốc lộ (QL) 34, vị trí đang có nguy cơ sụt trượt, cần phải khẩn trương di dời người và tài sản để đảm bảo an toàn. Vị trí sụt trượt chỉ còn cách mép ta luy khoảng 2m. Các cấp chính quyền huyện Bảo Lâm đã nhiều lần đến tuyên truyền, vận động gia đình nhanh chóng tìm nơi ở mới để di dời khỏi vùng nguy cơ sạt lở cao, đảm bảo cuộc sống an toàn và lâu dài.

“Nhà tôi ở đây mỗi khi có mưa to, đất trên đồi trôi xuống nhiều lắm. Cán bộ ở thị trấn, ở huyện cũng xuống vận động gia đình tìm nơi ở mới cho an toàn rồi. Tôi cũng hiểu và nhất trí di dời, nhưng mức kinh phí hỗ trợ cho mỗi hộ dân di dời hiện nay là 20 triệu đồng, gia đình tôi không còn tiền để đối ứng xây nhà ở nơi mới, an toàn hơn, nên đành phải sống ở đây thôi” - Ông Nhàn trăn trở.

Căn nhà mới xây của gia đình ông Chảo Phụ Nhàn được xác định đang nằm trên vị trí có nguy cơ sụt trượt cao.

Những năm gần đây, tại thị trấn Pác Miầu, tình hình lũ quét, sạt lở đất đá vào mùa mưa lũ diễn biến hết sức phức tạp, khó lường. Chỉ tính riêng năm 2020, ảnh hưởng của thiên tai đã gây thiệt hại về hoa màu và nhà cửa của nhân dân ước khoảng hơn 350 triệu đồng. Khi mùa mưa lũ đến, việc bố trí, sắp xếp, di dời dân cư ra khỏi vùng có nguy cơ sạt lở luôn là nhiệm vụ cấp bách được UBND thị trấn Pác Miầu chủ động thực hiện. Tuy nhiên, việc di chuyển những hộ dân ra khỏi vùng thiên tai nguy hiểm hiện đang gặp không ít khó khăn.

Không để người dân thấp thỏm, lo âu trong mùa mưa bão

Theo số liệu kiểm tra, rà soát, hiện trên địa bàn thị trấn Pác Miầu, huyện Bảo Lâm còn khoảng 2 - 3 điểm có nguy cơ cao về sạt lở. Ông Mông Đức Tuấn, Phó Chủ tịch UBND thị trấn Pác Miầu cho biết, trước mùa mưa bão, với tình hình thời tiết diễn biến phức tạp, nguy cơ sạt lở còn tiếp tục xảy ra, chính quyền địa phương đã chủ động hơn đến công tác dự báo, cảnh báo, đảm bảo an toàn cho các hộ trong vùng nguy cơ sạt lở, triển khai tốt phương trâm “4 tại chỗ” khi mưa lũ xảy ra. 

Hàng năm, UBND thị trấn Pác Miầu kiện toàn Ban Chỉ đạo và trực tiếp xuống cơ sở rà soát, tuyên truyền, vận động các hộ dân đang sinh sống tại các vùng có nguy cơ sạt lở cần phải khẩn trương di dời.

Trận mưa lớn khiến khối lượng lớn đất, đá từ trên núi cao sạt lở xuống, vùi lấp nhiều tuyến đường (Ảnh chụp năm 2020)

Bảo Lâm là huyện có địa hình nhiều đồi dốc cao, lòng suối hẹp, nước chảy xiết nên trên địa bàn thường có nguy cơ xảy ra lũ lụt, lũ quét và hiện tượng sạt lở ở hai bờ sông suối, các triền đồi núi và nhất là trên các tuyến đường giao thông xung yếu như: QL34, QL4C, đường tỉnh (ĐT) 220 (Bảo Lâm - Hà Giang), ĐT.215 (Bảo Lâm - Bắc Kạn), các tuyến đường liên xã nội huyện.

Ông Mã Gia Hãnh, Chủ tịch UBND huyện Bảo Lâm cho biết, xác định công tác phòng, chống thiên tai là một nhiệm vụ cấp bách, thường xuyên và xuyên suốt, ngay từ đầu năm, UBND huyện đã chỉ đạo các cấp, các ngành triển khai nghiêm túc công tác phòng, chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn; công tác này phải được triển khai với tinh thần chủ động, thường xuyên, kịp thời theo phương châm “4 tại chỗ”. Đồng thời, đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến kiến thức, kỹ năng phòng ngừa, phòng tránh, ứng phó và thích nghi với thiên tai ở các khu vực xung yếu, vùng thường xuyên, nguy cơ cao ảnh hưởng thiên tai; tổ chức huấn luyện, diễn tập thực hành phòng chống lũ, bão và tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn trên địa bàn huyện.

Đặc biệt, rà soát, kịp thời bổ sung phương án ứng phó với hạn hán, phòng chống lũ quét và siêu bão trong mùa mưa lũ. Quản lý, đầu tư, duy tu, đẩy nhanh tiến độ và đảm bảo chất lượng xây dựng các dự án, công trình trọng điểm về phòng, chống lũ quét, ngập lụt, sạt lở; công trình thủy lợi, giao thông để bảo vệ dân cư, ổn định sản xuất, kinh doanh.

Trận mưa lớn gây thiệt hại nghiêm trọng tới hoa màu của người dân huyện Bảo Lâm. (Ảnh chụp năm 2020)

Năm 2020, huyện Bảo Lâm đã xảy ra 3 đợt gió lốc, 6 đợt mưa to gây ra lũ quét, sạt lở đất, gây thiệt hại về người, tài sản, nhà cửa, hoa màu và các công trình hạ tầng giao thông, tổng thiệt hại trên 50 tỷ đồng. Huyện đã thực hiện di dời 25 hộ dân ở vùng thiên tai, vùng có nguy cơ cao về lũ quét, sạt lở đất đá đến nơi an toàn; thực hiện khắc phục sạt lở 6 tuyến giao thông tại các xã: Đức Hạnh, Vĩnh Phong, Nam Cao, Thạch Lâm; cải tạo sửa chữa 3 công trình giao thông, 2 công trình trường học; tổng kinh phí trên 21 tỷ đồng.

“Mặc dù chính quyền địa phương đã chủ động, quyết liệt triển khai các phương án, giải pháp nhằm giảm thiểu thiệt hại do thiên tai gây ra. Song, với huyện có tỷ lệ hộ nghèo, cận nghèo còn cao, chiếm trên 67%, thì kinh phí để hỗ trợ cho các hộ dân, đặc biệt là các hộ dân vùng đồng bào DTTS ít người di dời khỏi vùng nguy cơ sạt lở cao, đến nơi ở mới an toàn đang là vấn đề khó khăn, nan giải đối với Bảo Lâm” - Chủ tịch UBND huyện Bảo Lâm Mã Gia Hãnh cho biết thêm.

Dự báo tình hình thời tiết năm nay sẽ còn nhiều diễn biến phức tạp, khó lường. Cùng với sự quyết liệt, chủ động các phương án phòng, chống thiên tai của các cấp, ngành huyện Bảo Lâm, thì người dân, đặc biệt là đồng bào DTTS cần nâng cao hơn nữa nhận thức, hiểu biết kiến thức và kỹ năng phòng tránh thiên tai, nhất là các loại hình thiên tai thường xuyên xảy ra trên địa bàn là hết sức quan trọng. Qua đó góp phần hạn chế tối thiểu thiệt hại về người, tài sản do thiên tai gây ra, đảm bảo cho người dân yên tâm lao động, sản xuất.

Bài liên quan
  • Bình Phước: Người dân vùng sâu, vùng xa Phú Riềng đổi đời nhờ nước sạch
    (TN&MT) - Từ nguồn vốn cho vay nước sạch và vệ sinh môi trường (NS&VSMT) hàng ngàn hộ gia đình ở huyện Phú Riềng (tỉnh Bình Phước) đã đầu tư xây mới hoặc cải tạo, nâng cấp các công trình cấp nước sạch và các công trình vệ sinh, qua đó góp phần cải thiện môi trường, bảo vệ sức khỏe cộng đồng dân cư, phát triển kinh tế… nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân.

(0) Bình luận
Nổi bật
Bài học đồng lòng - từ khóa của thành công
Cách trung tâm huyện 23,5km, Chiềng Khoa như khối cơ bắp cuộn lên trên cánh tay của Vân Hồ. Nơi đây, ba năm về trước, xã Chiềng Khoa được công nhận xã Nông thôn mới đầu tiên. Đi tìm “điểm sáng” Chiềng Khoa, chúng tôi được nghe rất nhiều về hai chữ “đồng lòng”.
Đừng bỏ lỡ
  • Phú Yên: Tìm giải pháp cho những công trình nước sạch vùng nông thôn, vùng đồng bào DTTS
    (TN&MT) - Phú Yên là một trong số những địa phương chịu ảnh hưởng nặng nề của hạn hán. Người dân nhiều địa phương trong tỉnh, đặc biệt là khu vực miền núi thường xuyên thiếu nước sinh hoạt. Tuy nhiên, nghịch lý là hiện nay hàng chục công trình cấp nước sinh hoạt nông thôn tập trung do Nhà nước đầu tư xây dựng đã bị bỏ hoang từ nhiều năm qua.
  • Nuôi dê thương phẩm giúp nhiều hộ dân đổi đời
    Thời gian qua, việc chia sẻ kinh nghiệm nuôi dê thương phẩm và liên kết trong chăn nuôi, bao tiêu sản phẩm đang từng bước đem lại hiệu quả kinh tế lớn, đồng thời mở ra hướng đi mới cho hàng chục hộ dân ở huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang. Theo số liệu báo cáo, ước tính tổng đàn Dê thương phẩm của huyện đến hết tháng 6/2023 đạt khoảng 10.000 con.
  • Mường Lát (Thanh Hóa): Cuộc sống mới ở khu tái định cư
    Bản Ón, xã Tam Chung, huyện Mường Lát (Thanh Hóa) có 100% là đồng bào dân tộc Mông sinh sống. Đa số người dân trong bản thuộc diện hộ nghèo và cận nghèo. Phần lớn các hộ dân dựng nhà bên những sườn núi cheo leo, nên luôn phải đối mặt với nguy cơ lũ quét, sạt lở rất cao vào mùa mưa lũ. Nhưng giờ đây người dân trong bản không còn phải nơm nớp lo sợ, bởi khu tái định cư do Nhà nước đầu tư khang trang, đồng bào đã và đang bắt tay vào xây dựng cuộc sống mới.
  • Bắc Quang - Hà Giang: Nỗ lực giúp dân xóa nghèo bền vững
    Thực hiện Nghị quyết số 05-NQ/TU, ngày 1/11/2020 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Hà Giang về Chương trình cải tạo vườn tạp, phát triển kinh tế vườn hộ để tạo sinh kế cho người dân, giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021 - 2025, huyện Bắc Quang đã chủ động tuyên truyền, xây dựng kế hoạch và triển khai hiệu quả giúp hàng chục hộ dân xóa nghèo và vươn lên khá giả.
  • Sắc xanh xứ đạo xã Phú Sơn
    Bà con giáo xứ tại xã Phú Sơn, thị xã Nghi Sơn (Thanh Hóa) luôn nêu cao phương châm sống “tốt đời đẹp đạo”, tự giác nâng cao ý thức bảo vệ môi trường, giữ gìn vệ sinh đường làng, ngõ xóm.
  • Theo chân cán bộ kiểm lâm “cắm bản”
    (TN&MT) - Dọc theo những con đường đến với xã vùng biên Phiêng Pằn của huyện Mai Sơn (Sơn La), trên những quả đồi bạc màu, hoang hóa ngày nào, đang xanh lên màu xanh của những cánh rừng. Trong thành công ấy, có bóng dáng, sự nỗ lực quên mình của người kiểm lâm viên địa bàn ngày ngày “bám đất, bám rừng”.
  • Cây dược liệu- Cây xóa nghèo bền vững ở các huyện miền Núi
    Cùng với chính sách xóa đói, giảm nghèo của Chính phủ, trong những năm gần đây, Tỉnh ủy, UBND tỉnh Thanh Hóa đã đưa ra nhiều chương trình xóa đói, giảm nghèo cho bà con các huyện miền Núi. Trong những chương trình đó thì phát triển nguồn lực tại chỗ là một trong những thế mạnh của người dân như: Phát triển và bảo vệ rừng, trồng cây lâm nghiệp, nông nghiệp, trồng dược liệu… Nhờ đó, người dân vùng sâu, vùng xa Xứ Thanh đã thoát nghèo bền vững.
  • Lễ cầu mưa của dân tộc Hà Nhì
    (TN&MT) - Hàng năm từ 15/5 - 15/7 (âm lịch) người Hà Nhì ở Mường Nhé (Điện Biên) lại chuẩn bị cho Tết mùa mưa (Dế khù chà – theo tiếng Hà Nhì). Đây là dịp để người Hà Nhì cầu mong cho mưa thuận gió hòa, vụ mùa tốt tươi, con cháu họ được sum vầy hạnh phúc. Ngoài ý nghĩa tín ngưỡng tâm linh thì đó còn là thời điểm họ cảm tạ thần mưa đã dâng nước suối đủ tưới mát cây cối, ruộng đồng, không làm lũ ống, lũ quét... Cảm tạ đất trời đã che chở họ trong cả một năm qua.
  • Người Mạ giữ rừng vì giá trị truyền thống
    (TN&MT) - Nghề giữ rừng tại Vườn Quốc gia Tà Đùng (xã Đắk Som, huyện Đắk G’long) đã mang lại nguồn thu nhập cho các hộ đồng bào dân tộc thiểu số người Mạ từ khoản kinh phí từ dịch vụ môi trường rừng. Với đại đa số các hộ dân tại đây, giữ rừng không chỉ mang lại thu nhập mà còn là trách nhiệm với tổ tiên và các thế hệ mai sau bởi nghề rừng được xem như một nghề truyền thống.
  • Đồng bào Cơ Tu giữ rừng
    (TN&MT) - Ngàn đời nay, đồng bào Cơ Tu ở huyện Tây Giang (Quảng Nam) xem rừng như người Mẹ vĩ đại che chở mang lại sự sống cho dân làng. Chính từ sự ngưỡng vọng, tôn vinh, trân trọng ấy nên người dân Tây Giang luôn yêu quý, bảo vệ rừng.
  • Chính sách cấp nước sạch cho bà con dân tộc thiểu số
    (TN&MT) - Hiện nay, nhiều thôn bản vùng đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) và miền núi, điều kiện cơ sở hạ tầng còn rất khó khăn và thiếu thốn, đặc biệt là thiếu nguồn nước sạch cho sinh hoạt của người dân. Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021-2025 đã đưa vấn đề hỗ trợ nước sinh hoạt bao gồm hỗ trợ nước sinh hoạt phân tán và hỗ trợ nước sinh hoạt tập trung là một trong những trọng điểm.
  • Kinh nghiệm giữ rừng của người Tày Lạng Sơn
    Thôn Đông Đằng, xã Bắc Quỳnh (Bắc Sơn, Lạng Sơn) nằm cạnh một rừng nghiến cổ thụ xanh mướt. Bao đời nay, bằng tấm lòng yêu rừng, giữ rừng của người dân nơi đây, hàng trăm gốc nghiến quý giá vẫn giữ nguyên vẹn, sừng sững như minh chứng sống cho những thăng trầm, đổi thay trên vùng đất cách mạng Bắc Sơn.
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO