Gần 20 năm gắn bó Huôi Máy
Những ngày cuối tháng 5/2022, khi tiết trời xứ Nghệ đang trở nên oi ả đến bỏng rát, chúng tôi có cuộc hành trình đi vào một trong những điểm trường xa xôi, khó khăn nhất là điểm trường Huôi Máy, thuộc Trường tiểu học Cắm Muộn 2.
Đây là một điểm dân cư thuộc bản Cắm Pỏm (xã Cắm Muộn) với vẻn vẹn 38 hộ dân đều là người dân tộc Khơ Mú, tất cả đều là hộ nghèo. Đây là cụm dân cư đặc biệt khó khăn, xa xôi khi dân bản thiếu đất sản xuất, không đường, không điện, không sóng điện thoại…thiếu thốn trăm bề.
Có khách, thầy Lô Văn É nhanh chóng vào bếp đỏ lửa, còn thầy Thanh thì vội vã đi hái rau, để ít nhất cũng có bữa trưa “tươm tất” đãi chúng tôi. Nhễ nhại mồ hôi bên bếp lửa, thầy É kể về những gian nan, vất vả khi được điều về điểm trường này. Trong câu chuyện của thầy É, lúc nào cũng kết thúc: “Thầy Thanh mới là người kiên cường, còn tôi chỉ mới vào đây được 2 năm”.
Biết chúng tôi nóng lòng gặp “nhân vật chính”, nên thầy É đã đảm nhận việc nấu nướng để thầy Thanh có thời gian tiếp chuyện chúng tôi.
Rót xong cốc nước được nấu bằng một loại dây rừng có mùi thơm thoang thoảng để mời khách, thầy Thanh bắt đầu kể, năm 2003, thầy được nhận về trường Tiểu học Cắm Muộn 2 và được điều động vào điểm trường Huôi Máy. Một năm sau, thầy lại được điều về điểm trường khác của bản bên. Một năm sau, thầy được điều trở lại Huôi Máy. Thầy không tìm hiểu lí do, nhưng sau này nghe bà con nói lại là họ đề xuất với nhà trường để thầy trở lại với… Huôi Máy.
Thày Lô Văn Thanh nhớ lại thời kỳ mới vào Huôi Máy: “Ngày đầu vào điểm trường này, đúng là quá đỗi gian nan. Riêng khoản đi bộ những 4 tiếng đồng hồ cũng đã đủ làm người ta nhụt chí. Lớp học thì bằng tre, nứa, lá cũ kỹ có thể sập xuống lúc nào không hay, còn nhà công vụ thì gió lùa quanh năm, nhất là về mùa Đông, đêm lạnh buốt xương”.
Thầy nói tiếp: Nhưng vẫn chưa là gì so với các em học sinh, quần áo rách rưới tả tơi, chân trần đến lớp…Mình bỏ các em sao đành.
Im lặng một lúc, thầy kể, có những em bố mẹ đi rẫy, phải nhịn đói mấy ngày liền, thế mà vẫn đến lớp. Tôi nhớ mãi hai anh em Vi Văn Thanh, con ông Vi Văn Cư, đang học thì bị ngất xỉu. Hỏi ra mới biết, đã hai ngày các em chưa được ăn gì. Thế là phải tạm cho lớp làm bài tập để thầy đi thổi cơm cho hai đứa. Vợ tôi còn ngạc nhiên hơn khi tôi nhờ cô ấy mua nhiều kim chỉ để mang vào điểm trường. “Quần áo các em rách tả tơi thế kia, thầy phải khâu vá giúp chúng nó thôi” - thầy Thanh trầm giọng.
“Không ai cho thầy đi đâu”
Tôi nói với thầy Thanh về chế độ chuyển trường cho những giáo viên ở vùng khó khăn nhiều năm. Thầy cười, nụ cười thật hiền từ: Tôi biết điều đó, và tôi cũng đã nhiều lần được lãnh đạo cho chuyển về gần nhà. Nhưng mỗi lần như thế, bà con lại đến gặp, đề nghị thầy đừng rời Huôi Máy.
Thầy Thanh nói trong xúc động: “Bà con quý mình như thế, học trò quý mình như thế, làm sao tôi rời đi được”. Mỗi lần như vậy, tôi lại hứa với bà con, sẽ ở lại, thế mà đã 19 năm tôi giữ được lời hứa của mình.
Tranh thủ lúc hai thầy dọn cơm, tôi lững thững vào bản, xem đời sống người dân ở đây. Đúng như các thầy nói, bữa cơm trưa của bà con đa phần là rau. Anh Ngân Văn Hoa, bố của cháu Ngân Thị Thông, bỏ hẳn cả bữa cơm để nói về thầy Thanh: “Chúng tôi thì bận đi rẫy, việc học của cháu coi như giao hẳn cho thầy. Ở đây, không chỉ học sinh mà người dân, ai cũng tin, cũng quý thầy Thanh lắm. Ai chuyển trường cũng được nhưng thầy Thanhh thì không được chuyển, dân bản không để thầy rời Huôi Máy đâu”.
Tiếp lời, phụ huynh Ốc Văn Thuận, nói về người thầy đáng kính của con mình: “Thầy Thanh với bà con ở đây là bạn bè, gần gũi nhau từ mấy chục năm nay rồi, không ai cho thầy đi đâu”.
“Bữa cơm thường trong bản nhỏ” cũng khá tươm tất, có thịt gà và cả vài li rượu trắng mà chúng tôi đã mua ở trung tâm, vì biết các thầy không thể mua bán gì trong này. Tôi lâng lâng nói với thầy Thanh về tình cảm của bà con đối với các thầy.
“Có một số em đã được học hết THPT, còn phần lớn đã xong chương trình THCS, trong đó có nhiều em đi làm công nhân, học chuyên nghiệp. Mỗi dịp về quê, chúng nó lại kéo nhau đến gặp thầy, ríu rít kể cho thầy nghe đủ thứ chuyện. Từ chuyện học hành, làm ăn đến yêu đương…Lúc đó tôi không còn thấy bất kỳ khó khăn gì ở đây mà chỉ thấy ngập tràn hạnh phúc. Vì thế mà tôi tự hứa với mình, đang còn sức khoẻ là đang gắn bó với Huôi Máy” – thầy Thanh, cười hiền từ tâm sự.
Tôi hỏi các thầy về phụ cấp cho giáo viên cắm bản. Rất thành thật, thầy Thanh cho biết, mấy năm trước, thấy anh em trong Huôi Máy khó khăn, Công đoàn nhà trường đã hỗ trợ cho mỗi người 20.000 đồng/tháng, nhưng hai năm nay do dịch bệnh, khó khăn chung nên khoản này cũng không có nữa.
“Không sao cả, anh em chúng tôi vừa tăng gia trồng rau, thi thoảng lại mang lưới xuống suối đánh cá để cải thiện bữa ăn” – Thầy Thanh vui vẻ nói.
Chiều buông, chúng tôi phải gấp rút rời Huôi Máy, bởi như lời bà con, nếu gặp mưa thì nội bất xuất ngoại bất nhập, con đường độc đạo đi vào Huôi Máy sẽ bị nước lũ chia cắt, muốn rời đi sẽ mất cả vài ngày trời để chờ nước rút, đường khô.
Tiễn chúng tôi ra về, thầy Thanh chỉ có một nguyện vọng cho các học trò của mình: "Học sinh ở đây lực học còn rất yếu, chúng tôi muốn kèm cặp thêm cho các em vào buổi tối, nhưng điện không có, giá như được tài trợ một hệ thống năng lượng mặt trời, thì chắc chắn các em sẽ tiến bộ vượt bậc".