Người dân hai huyện miền núi A Lưới và Nam Đông của tỉnh Thừa Thiên - Huế chủ yếu là đồng bào DTTS, đời sống còn khó khăn, kinh tế không ổn định. Tuy nhiên những năm gần đây, từ nhiều chính sách về bảo vệ rừng của nhà nước đã tạo việc làm, tăng thu nhập, qua đó giúp người đồng lòng giữ rừng.
Đời sống đồng bào DTTS đồng lòng giữ rừng, phát triển kinh tế |
Ông Trần Văn Biên - Trưởng Ban Quản lý rừng cộng đồng thôn Dỗi (xã Thượng Lộ, huyện Nam Đông) thông tin, thôn có 157 hộ, 660 nhân khẩu, chiếm hơn một nửa dân số xã, số hộ nghèo và cận nghèo vẫn còn nhiều, tập quán sản xuất còn lạc hậu, sinh sống chủ yếu dựa vào rừng.
Từ năm 2011 - 2012, cộng đồng thôn Dỗi được UBND huyện giao quản lý, bảo vệ 702,5 ha rừng tự nhiên, trong đó rừng giàu 483,3 ha, còn lại rừng trung bình, rừng nghèo và một số diện tích chưa sử dụng. Ban Quản lý rừng cộng đồng thôn Dỗi đã tiến hành thành lập 5 Tổ quản lý bảo vệ rừng với hơn 60 thành viên, tuần tra 500 ngày công, làm giàu rừng 120 ngày công. Từ khi được giao khoán quản lý, người dân thôn Dỗi đã ý thức tầm quan trọng của rừng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của thôn. Từ đó, người dân nơi đây đã nêu cao tinh thần trách nhiệm và nghĩa vụ, tự nguyện xây dựng quy ước quản lý, bảo vệ và phát triển rừng.
“Tập quán sinh sống dựa vào rừng không chỉ được xóa bỏ, người dân còn tham gia cùng cơ quan chức năng ra sức tuần tra, bảo vệ rừng nghiêm ngặt. Từ đó diện tích rừng do thôn quản lý không còn xảy ra tình trạng chặt phá, lấn chiếm làm nương rẫy. Các dự án còn hỗ trợ giống và kỹ thuật cho người dân trồng 20 ha mây dưới tán rừng và 2.000 gốc tre lấy măng đã góp phần giảm nghèo, ổn định cuộc sống...”, ông Biên chia sẻ.
Người dân miền núi tham gia tuần tra rừng |
Ông Trần Văn Trĩ, Chủ tịch UBND xã Thượng Long (huyện Nam Đông) cho biết, xã Thượng Long có 2 nhóm hộ, 6 cộng đồng trong xã được giao khoán rừng. Việc họp bàn kế hoạch kết hợp giữa tuần tra bảo vệ rừng, chăm sóc vườn rừng và làm giàu rừng đã trở thành hoạt động luân phiên hàng tháng của các tổ nhóm. Các thành viên trong cộng đồng chăm sóc rừng mây, khai thác lâm sản phụ. Qua đó, không chỉ giúp các thành viên gắn bó với rừng hơn mà còn làm đa dạng hệ sinh thái, chất lượng rừng ngày càng được nâng cao. Nhờ vậy, đã ngăn chặn kịp thời các hành vi xâm phạm tài nguyên rừng, lấn chiếm đất rừng.
Tại huyện A Lưới có hơn 70% diện tích đất lâm nghiệp là rừng tự nhiên và diện tích đất rừng. Huyện đã giao hơn 20.000 ha rừng tự nhiên cho 191 nhóm hộ, 26 hộ gia đình, 39 cộng đồng dân cư thôn và 2 Đồn Biên phòng quản lý.
Ông Lê Thanh Bừng (thôn Hợp Thượng, xã Hồng Thượng, huyện A Lưới) cho hay, cách đây hơn 5 năm, ông cùng nhóm hộ dân trong thôn được giao quản lý, bảo vệ gần 100 ha rừng. Mỗi năm, kinh phí hỗ trợ trên dưới 10 triệu đồng/hộ, số tiền tuy không lớn nhưng đã phần nào giúp người dân có thêm nguồn thu nhập để mua con giống, cây giống, phân bón phục vụ sản xuất nông nghiệp. Từ nghèo khó, nhóm hộ của ông Bừng đã ổn định cuộc sống nhờ chăn nuôi, trồng trọt...
Những cánh rừng ở miền núi Thừa Thiên - Huế ngày càng được bao phủ |
Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng tỉnh Thừa Thiên - Huế thông tin, toàn tỉnh có 576 chủ rừng là cộng đồng, nhóm hộ gia đình với hơn 5.000 hộ ở miền núi. Qua các chính sách hỗ trợ về rừng đã giúp nâng cao nhận thức và trách nhiệm trong công tác bảo vệ và phát triển rừng cho các tổ chức, cộng đồng và cá nhân.
Theo Giám đốc Ban Quản lý rừng phòng hộ huyện A Lưới - Văn Thân, việc xã hội hóa ngành lâm nghiệp là cần thiết nhằm thu hút, tranh thủ sự tham gia của người dân trong công tác quản lý, bảo vệ rừng. Nhờ chính sách giao về giao rừng, bảo vệ rừng mà tình trạng chặt phá, xâm lấn rừng lấy đất sản xuất và khai thác vận chuyển lâm sản trái phép và cháy rừng được hạn chế. Hơn 95% người dân khẳng định nhận thức của họ về bảo vệ rừng tốt hơn trước.
“Quá trình tham gia quản lý bảo vệ rừng, người dân vùng DTTS đã nắm bắt thông tin, phối hợp với cơ quan chức năng tổ chức nhiều đợt tuần tra, truy quét, đẩy đuổi lâm dân trái phép ra khỏi rừng; phát hiện, xử lý kịp thời nhiều vụ vi phạm khai thác, vận chuyển, lấn chiếm rừng”, ông Thân nói.
Cũng theo ông Thân, để công tác bảo vệ rừng vùng DTTS hiệu quả cần nâng cao năng lực và trách nhiệm của chính quyền địa phương trong hoạt động quản lý nhà nước về rừng và đất rừng. Các chủ rừng thực hiện tốt hơn nữa vai trò trong việc kiểm soát lâm phận của đơn vị mình, gắn trách nhiệm của chủ rừng trong việc để xảy ra các vụ việc trong phạm vi đơn vị quản lý; chủ động để truy quét và có kế hoạch phối hợp tốt với lực lượng kiểm lâm, chính quyền địa phương, kiên quyết không để xảy ra điểm nóng phá rừng và lấn chiếm rừng, nhất là vùng núi, vùng sâu vùng xa...