Thu hẹp đất canh tác ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số - Bài 4: Sử dụng hiệu quả quỹ đất ở Tây Nguyên

Thúy Nhi | 24/02/2023, 09:28

Đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên còn nhiều khó khăn, thu nhập chủ yếu dựa vào nông nghiệp. Tuy nhiên, trong những năm trở lại đây, tình trạng đất canh tác bị thu hẹp đang có xu hướng tăng do suy thoái chất lượng đất, đất có nguồn gốc từ các nông, lâm trường chưa được sử dụng hiệu quả, xảy ra tình trạng tranh chấp, lấn chiếm…

* Thu hẹp do suy thoái đất

Tây Nguyên có tổng diện tích đất nông nghiệp trên 5 triệu hecta, chiếm 91,75% diện tích đất tự nhiên, trong đó có 1,3 triệu hecta đất đỏ bazan. So với 7 vùng sinh thái của nông nghiệp Việt Nam, Tây Nguyên có lợi thế cạnh tranh với quỹ đất bazan tập trung, điều kiện sinh thái và lượng mưa lớn, bình quân diện tích sản xuất hộ gia đình rộng hơn so với các nơi khác.

Tuy nhiên, việc phát triển nông nghiệp tại đây vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn và thách thức trong tiến trình phát triển bền vững, thu nhập của người nông dân chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế.

Theo các nghiên cứu thuộc Chương trình Tây Nguyên 3 năm 2016, Tây Nguyên hiện có hơn 1 triệu ha đất bị thoái hóa nặng và rất nặng, chiếm 20,5% diện tích tự nhiên của vùng. Đây là những diện tích thoái hóa đất đã thể hiện rõ đến mức khó có thể canh tác nông nghiệp bình thường.

5.png

Tây Nguyên là khu vực chịu ảnh hưởng nặng của hoang mạc hóa. Ảnh: HL

Thực tiễn vài năm trở về đây, diện tích đất biểu hiện thoái hóa có thể cao hơn nhiều so với con số trên. Theo đánh giá của Viện Khoa học kỹ thuật Nông Lâm nghiệp Tây Nguyên, phần lớn đất đai đang sản xuất nông nghiệp hiện nay, đặc biệt là các vùng chuyên canh cà phê, hồ tiêu lâu đời ở Tây Nguyên đang có sự biến động lớn về lý, hóa tính và cả sinh học theo hướng tiêu cực và ảnh hưởng xấu cho việc canh tác nông nghiệp.

Hệ lụy của thoái hóa đất là làm suy giảm độ phì nhiêu của đất được thể hiện qua các chỉ tiêu như đất bí chặt, chua hóa, khả năng giữa ẩm, giữ dinh dưỡng kém; hiệu quả sử dụng phân bón thấp; hệ vi sinh vật đất chủ yếu là vi sinh vật gây hại; sâu bệnh hại từ đất phát triển nhanh và mạnh ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất nông nghiệp.

Thoái hóa đất ở Tây Nguyên được gắn với các nguyên nhân do phá rừng, loại bỏ thảm thực vật tự nhiên, canh tác nông nghiệp chưa hợp lý, thiếu các biện pháp bảo vệ đất, độc canh nhiều diện tích cây công nghiệp dài ngày, sử dụng quá mức các loại phân bón hóa học, thuốc bảo vệ thực vật, do biến đổi khí hậu hạn hán kéo dài…

* Quy hoạch phát triển và liên kết vùng sản xuất hợp lý

Để hạn chế tình trạng thoái hóa đất, tiến tới phục hồi tài nguyên đất đai ở Tây Nguyên, cần có các biện pháp vừa ngắn hạn và dài hạn đan xen trên cơ sở phát huy kỹ thuật nông nghiệp bền vững, thuận tự nhiên. Người dân cần áp dụng nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp chính xác, theo định hướng quy hoạch phát triển và liên kết vùng sản xuất hợp lý.

6.png
Nhiều diện tích khô hạn ở Tây Nguyên. Ảnh HL

Cụ thể về lâu dài, cơ quan chức năng cần định hướng phát triển và quy hoạch các vùng sản xuất nông nghiệp theo cách tiếp cận cảnh quan trên nguyên tắc: đa dạng sinh học, các thành phần tự nhiên và nhân văn trong vùng có khả năng tương hỗ về sinh thái và kinh tế trong sản xuất. Trong quy hoạch, thay vì tập trung vào các địa danh hành chính, cần phải tập trung vào các vùng sản xuất lớn và các vùng lưu vực.

Mỗi vùng như vậy cần phải được đánh giá toàn diện về độ phì đất, các điều kiện sinh thái, tính ổn định về mặt môi trường, hiện trạng cơ sở hạ tầng cứng và mềm phục vụ sản xuất, để từ đó đề xuất rõ loại cây trồng/nhóm cây trồng (xen canh) và biện pháp canh tác tương ứng với từng loại đất.

Trong yêu cầu kỹ thuật đi kèm, cần nêu rõ các biện pháp bảo vệ đất, chống xói mòn như làm mô đất, mương, băng cây phân xanh, bậc thang, bố trí hệ thống cây trồng và luân canh cây trồng phù hợp. Đối với những nơi nguy cơ xói mòn cao như đất quá dốc, đỉnh dốc cần quy hoạch vùng tái sinh rừng, trồng rừng. Ngoài ra, cần quy hoạch tất cả cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất như hồ đập, xưởng chế biến, kho bãi và các hệ thống cung cấp vật tư đầu vào, hệ thống mua bán tiêu thụ sản phẩm…

Đặc biệt, Tây Nguyên cần một cơ sở hạ tầng mềm là các chính sách, quy định với sự tham gia của các bên để đảm bảo quy hoạch sẽ được thực hiện đúng. Hiện nay, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã có đề án phát triển cà phê theo cách tiếp cận cảnh quan cho các tỉnh vùng Tây Nguyên. Đây là bước đi rất quan trọng để các địa phương, phối hợp với các cơ quan chuyên môn các cấp và người sản xuất xây dựng các mô hình sản xuất nông nghiệp bền vững, từ đó, có thể nhân rộng và mở rộng hướng khai thác sử dụng đất theo hướng này ra toàn vùng.

Về ngắn hạn, người dân cần áp dụng các quy trình quản lý cây trồng tổng hợp (ICM), ưu tiên các kỹ thuật nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp chính xác, nông nghiệp tuần hoàn, nông nghiệp hữu cơ trong sản xuất nông nghiệp.

* Giao đất nông lâm trường không hiệu quả cho đồng bào dân tộc thiểu số

Tại “Hội nghị triển khai Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 23 ngày 6 tháng 10 năm 2022 của Bộ Chính trị về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 và Xúc tiến đầu tư vùng” vào cuối năm 2022, Bộ trưởng Bộ TN&MT Trần Hồng Hà cho biết, nhiều điểm mới của Luật Đất đai sửa đổi sẽ có tác động đến vùng Tây Nguyên.

Cụ thể, dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) sẽ hoàn thiện quy định của pháp luật về giao đất, cho thuê đất gắn với bảo vệ và phát triển rừng; sử dụng đất đa mục đích, kết hợp phát triển cây dược liệu, du lịch nghỉ dưỡng gắn với sản xuất nông nghiệp, bảo vệ và phát triển rừng; tạo điều kiện cho đồng bào dân tộc thiểu số có đất để sản xuất không chỉ trong nông nghiệp mà trong sản xuất, kinh doanh để đảm bảo sinh kế, phù hợp với tiến trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thực tế quỹ đất ở địa phương.

Đặc biệt, việc hoàn thiện các quy định sẽ mang lại thay đổi lớn, như quy định cho thuê đất hàng năm, miễn hoàn toàn tiền thuê đất đối với các trường hợp Nhà nước thực hiện chính sách đất đai đảm bảo tư liệu sản xuất cho đồng bào, ngăn ngừa tình trạng nhận đất hỗ trợ chuyển nhượng và tiếp tục di canh, di cư, phá rừng làm nương rẫy.

Để sử dụng quỹ đất tại Tây Nguyên có hiệu quả, theo Bộ trưởng Bộ TN&MT, cần thực hiện rà soát hiện trạng sử dụng đất có nguồn gốc từ các nông, lâm trường; xác định diện tích đất sử dụng không đúng mục đích, không sử dụng, đang giao khoán, cho thuê, cho mượn, liên doanh, liên kết, hợp tác đầu tư, bị lấn, bị chiếm và đang có tranh chấp để xử lý, thu hồi giao cho đồng bào dân tộc thiểu số không có đất hoặc thiếu đất sản xuất ở địa phương và các chủ thể có năng lực sử dụng hiệu quả, phát huy lợi thế quỹ đất tập trung. Thực hiện các biện pháp kiên quyết để các doanh nghiệp phải thực hiện chuyển sang thuê đất, thu nộp đầy đủ nghĩa vụ tài chính với Nhà nước, đảm bảo mang lại nguồn thu tương xứng cho ngân sách…

Bài liên quan

(0) Bình luận
Nổi bật
Bài học đồng lòng - từ khóa của thành công
Cách trung tâm huyện 23,5km, Chiềng Khoa như khối cơ bắp cuộn lên trên cánh tay của Vân Hồ. Nơi đây, ba năm về trước, xã Chiềng Khoa được công nhận xã Nông thôn mới đầu tiên. Đi tìm “điểm sáng” Chiềng Khoa, chúng tôi được nghe rất nhiều về hai chữ “đồng lòng”.
Đừng bỏ lỡ
  • Phú Yên: Tìm giải pháp cho những công trình nước sạch vùng nông thôn, vùng đồng bào DTTS
    (TN&MT) - Phú Yên là một trong số những địa phương chịu ảnh hưởng nặng nề của hạn hán. Người dân nhiều địa phương trong tỉnh, đặc biệt là khu vực miền núi thường xuyên thiếu nước sinh hoạt. Tuy nhiên, nghịch lý là hiện nay hàng chục công trình cấp nước sinh hoạt nông thôn tập trung do Nhà nước đầu tư xây dựng đã bị bỏ hoang từ nhiều năm qua.
  • Nuôi dê thương phẩm giúp nhiều hộ dân đổi đời
    Thời gian qua, việc chia sẻ kinh nghiệm nuôi dê thương phẩm và liên kết trong chăn nuôi, bao tiêu sản phẩm đang từng bước đem lại hiệu quả kinh tế lớn, đồng thời mở ra hướng đi mới cho hàng chục hộ dân ở huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang. Theo số liệu báo cáo, ước tính tổng đàn Dê thương phẩm của huyện đến hết tháng 6/2023 đạt khoảng 10.000 con.
  • Mường Lát (Thanh Hóa): Cuộc sống mới ở khu tái định cư
    Bản Ón, xã Tam Chung, huyện Mường Lát (Thanh Hóa) có 100% là đồng bào dân tộc Mông sinh sống. Đa số người dân trong bản thuộc diện hộ nghèo và cận nghèo. Phần lớn các hộ dân dựng nhà bên những sườn núi cheo leo, nên luôn phải đối mặt với nguy cơ lũ quét, sạt lở rất cao vào mùa mưa lũ. Nhưng giờ đây người dân trong bản không còn phải nơm nớp lo sợ, bởi khu tái định cư do Nhà nước đầu tư khang trang, đồng bào đã và đang bắt tay vào xây dựng cuộc sống mới.
  • Bắc Quang - Hà Giang: Nỗ lực giúp dân xóa nghèo bền vững
    Thực hiện Nghị quyết số 05-NQ/TU, ngày 1/11/2020 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Hà Giang về Chương trình cải tạo vườn tạp, phát triển kinh tế vườn hộ để tạo sinh kế cho người dân, giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021 - 2025, huyện Bắc Quang đã chủ động tuyên truyền, xây dựng kế hoạch và triển khai hiệu quả giúp hàng chục hộ dân xóa nghèo và vươn lên khá giả.
  • Sắc xanh xứ đạo xã Phú Sơn
    Bà con giáo xứ tại xã Phú Sơn, thị xã Nghi Sơn (Thanh Hóa) luôn nêu cao phương châm sống “tốt đời đẹp đạo”, tự giác nâng cao ý thức bảo vệ môi trường, giữ gìn vệ sinh đường làng, ngõ xóm.
  • Theo chân cán bộ kiểm lâm “cắm bản”
    (TN&MT) - Dọc theo những con đường đến với xã vùng biên Phiêng Pằn của huyện Mai Sơn (Sơn La), trên những quả đồi bạc màu, hoang hóa ngày nào, đang xanh lên màu xanh của những cánh rừng. Trong thành công ấy, có bóng dáng, sự nỗ lực quên mình của người kiểm lâm viên địa bàn ngày ngày “bám đất, bám rừng”.
  • Cây dược liệu- Cây xóa nghèo bền vững ở các huyện miền Núi
    Cùng với chính sách xóa đói, giảm nghèo của Chính phủ, trong những năm gần đây, Tỉnh ủy, UBND tỉnh Thanh Hóa đã đưa ra nhiều chương trình xóa đói, giảm nghèo cho bà con các huyện miền Núi. Trong những chương trình đó thì phát triển nguồn lực tại chỗ là một trong những thế mạnh của người dân như: Phát triển và bảo vệ rừng, trồng cây lâm nghiệp, nông nghiệp, trồng dược liệu… Nhờ đó, người dân vùng sâu, vùng xa Xứ Thanh đã thoát nghèo bền vững.
  • Lễ cầu mưa của dân tộc Hà Nhì
    (TN&MT) - Hàng năm từ 15/5 - 15/7 (âm lịch) người Hà Nhì ở Mường Nhé (Điện Biên) lại chuẩn bị cho Tết mùa mưa (Dế khù chà – theo tiếng Hà Nhì). Đây là dịp để người Hà Nhì cầu mong cho mưa thuận gió hòa, vụ mùa tốt tươi, con cháu họ được sum vầy hạnh phúc. Ngoài ý nghĩa tín ngưỡng tâm linh thì đó còn là thời điểm họ cảm tạ thần mưa đã dâng nước suối đủ tưới mát cây cối, ruộng đồng, không làm lũ ống, lũ quét... Cảm tạ đất trời đã che chở họ trong cả một năm qua.
  • Người Mạ giữ rừng vì giá trị truyền thống
    (TN&MT) - Nghề giữ rừng tại Vườn Quốc gia Tà Đùng (xã Đắk Som, huyện Đắk G’long) đã mang lại nguồn thu nhập cho các hộ đồng bào dân tộc thiểu số người Mạ từ khoản kinh phí từ dịch vụ môi trường rừng. Với đại đa số các hộ dân tại đây, giữ rừng không chỉ mang lại thu nhập mà còn là trách nhiệm với tổ tiên và các thế hệ mai sau bởi nghề rừng được xem như một nghề truyền thống.
  • Đồng bào Cơ Tu giữ rừng
    (TN&MT) - Ngàn đời nay, đồng bào Cơ Tu ở huyện Tây Giang (Quảng Nam) xem rừng như người Mẹ vĩ đại che chở mang lại sự sống cho dân làng. Chính từ sự ngưỡng vọng, tôn vinh, trân trọng ấy nên người dân Tây Giang luôn yêu quý, bảo vệ rừng.
  • Chính sách cấp nước sạch cho bà con dân tộc thiểu số
    (TN&MT) - Hiện nay, nhiều thôn bản vùng đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) và miền núi, điều kiện cơ sở hạ tầng còn rất khó khăn và thiếu thốn, đặc biệt là thiếu nguồn nước sạch cho sinh hoạt của người dân. Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021-2025 đã đưa vấn đề hỗ trợ nước sinh hoạt bao gồm hỗ trợ nước sinh hoạt phân tán và hỗ trợ nước sinh hoạt tập trung là một trong những trọng điểm.
  • Kinh nghiệm giữ rừng của người Tày Lạng Sơn
    Thôn Đông Đằng, xã Bắc Quỳnh (Bắc Sơn, Lạng Sơn) nằm cạnh một rừng nghiến cổ thụ xanh mướt. Bao đời nay, bằng tấm lòng yêu rừng, giữ rừng của người dân nơi đây, hàng trăm gốc nghiến quý giá vẫn giữ nguyên vẹn, sừng sững như minh chứng sống cho những thăng trầm, đổi thay trên vùng đất cách mạng Bắc Sơn.
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO