Thu hẹp đất canh tác ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số - Bài 3: Thoái hóa đất ở Tây Bắc

Trần Hương | 08/02/2023, 10:06

(TN&MT) - Đất đai tại các địa phương vùng Tây Bắc đang có tình trạng thoái hóa đất với mức độ gia tăng. Điều này là một trong những nguyên nhân khiến vùng đồng bào dân tộc thiểu số thiếu đất canh tác. Nếu không sớm có giải pháp, rất có thể trong tương lai không xa, tại các tỉnh miền núi Tây Bắc có thể sẽ mất cân đối an ninh lương thực.

Đất suy thoái, tốn nhiều công chăm sóc

Theo nhận định chung của những già làng, trưởng bản có kinh nghiệm sản xuất nông nghiệp là người dân tộc thiểu số (DTTS) sống tại các tỉnh Điện Biên, Lai Châu, Sơn La, Lào Cai, Yên Bái…, trước đây bà con canh tác không phải mất nhiều công sức chăm bón như bây giờ. Thậm chí, có những vùng đất còn phì nhiêu chỉ cần gieo hạt, làm cỏ lúa, ngô vẫn cho thu hoạch, sản lượng cao. Nhưng hiện nay, nếu gieo hạt mà đồng bào không chăm bón phân hóa học, phun thuốc bảo vệ thực vật, cây không thể lên nổi, do chất lượng đất bị suy giảm.

Già làng Lò Văn Ún, bản Co Líu, xã Mường Phăng, TP. Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên, xác thực bằng việc chỉ vào đám nương trước đây gia đình ông còn canh tác, diện tích khoảng gần 2ha. Ông nói: Vụ đầu đám nương này cho ông khoảng 2 tấn thóc, năm sau thì được khoảng 1 tấn, năm sau nữa chỉ còn vài tạ.. giờ thì gieo hạt cây cũng không lên.

Điều ông nói là hợp với quy luật tự nhiên, khi độ dốc cao, mưa xói mòn sẽ rửa trôi dần các lớp mùn tơi xốp dẫn đến hoang hóa đất trồng. Điều này không có gì lạ đối với hầu hết đồng bào các dân tộc canh tác đất nương rãy thuộc các tỉnh Tây Bắc.

Tại một số tỉnh Tây Bắc như: Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Yên Bái… đều có độc dốc ngắn, cao. Khí hậu khắc nghiệt, nắng hạn kéo dài, lũ ống, lũ quét, sạt lở đất. Bên cạnh đó, một phần nguyên nhân chính là do quá trình sử dụng đất của người dân. Điều này tác động xấu, trực tiếp đến tài nguyên đất, dẫn đến tình trạng đất ngày càng bị thoái hóa.

Sơn La, diện tích đất nông nghiệp bị thoái hóa ở tỉnh này chiếm hơn 71% diện tích đất sản xuất nông nghiệp toàn tỉnh. Đất lâm nghiệp bị thoái hóa là 204.915/643.766ha, chiếm 31,5% diện tích đất lâm nghiệp của tỉnh. Diện tích đất chưa sử dụng có tới 312.292ha/334.769ha bị thoái hóa, chiếm tới 93,5% diện tích đất chưa sử dụng của tỉnh. Phân theo loại hình thoái hóa, tổng diện tích đất bị xói mòn là hơn 719.000ha; đất bị suy giảm độ phì hơn 516.000ha; đất bị khô hạn hơn 777.00ha diện tích điều tra.

a2.jpg

Xói mòn rửa trôi thúc đẩy nhanh quá trình thoái hóa đất

Nguyên nhân gây ra thoái hóa đất là do ảnh hưởng của khí hậu khắc nghiệt và biến đổi khí hậu, ảnh hưởng của định hình làm gia tăng tình trạng khô hạn kéo dài, lũ ống, lũ quét, sạt lở đất. Bên cạnh đó, một phần nguyên nhân chính là do quá trình sử dụng đất của người dân. Tình trạng lấn chiếm, chuyển mục đích sử dụng đất trái phép, việc sử dụng hiệu quả tài nguyên đất, rừng tại các công ty lâm nghiệp còn thấp, tình trạng để hoang hóa, việc người dân tự ý vén đất rừng để trồng cây hàng năm.

Cùng với đó, việc tăng cường sử dụng phân bón hóa học, thuốc kích thích sinh trưởng và thuốc bảo vệ thực vật đã làm gia tăng mức độ suy giảm độ phì nhiêu ở các vùng thấp; việc trồng cây hàng năm trên các khu vực dốc, đốt nương làm rẫy dẫn đến xói mòn, rửa trôi, sạt lở đất làm suy thoái hóa học, mất chất dinh dưỡng của đất. Nhiều khu rừng do bị khai thác kiệt quệ và chuyển sang làm nương rẫy, ảnh hưởng tới sự đa dạng sinh học, suy thoái môi trường.

Đối với tỉnh Điện Biên qua điều tra, rà soát thoái hóa đất kỳ đầu từ cuối năm 2015, tổng diện tích rà soát khoảng 930.000 ha đất. Qua đó xác định được gần 350.000 ha đất đã bị thoái hóa nặng tập trung chủ yếu ở các huyện: Mường Chà, Điện Biên Đông, Nậm Pồ. Những diện tích bị thoái hóa nặng này đều có chung biểu hiện bị xói mòn, rửa trôi, kết vón và suy giảm độ phì nhiêu.

Ngoài ra, diện tích đất nông nghiệp bị thoái hóa cũng được xác định chiếm khoảng 87% tổng diện tích đất sản xuất nông nghiệp của toàn tỉnh. Nguyên nhân thoái hóa đất là do tác động của tự nhiên. Bên cạnh đó còn có các hoạt động của con người trong quá trình sử dụng, canh tác đất chưa hợp lý, sản xuất công nghiệp, giao thông, xây dựng cơ bản… gây suy giảm độ phì nhiêu và xói mòn đất.

Một số tỉnh còn lại như: Hòa Bình, Lai Châu, Yên Bái, Lào Cai tỷ lệ đất bị thoái hóa cũng tương đối cao. Riêng Lai Châu tổng diện tích đất bị thoái hóa là 755.619 ha, chiếm 86,80% diện tích điều tra. Trong đó, thoái hóa nhẹ: 298.940 ha, chiếm 34,34% diện tích điều tra; thoái hóa trung bình: 282.757 ha, chiếm 32,48% diện tích điều tra; thoái hóa nặng: 173.922 ha, chiếm 19,98% diện tích điều tra, cao gần như đứng đầu Khu vực.

Giải pháp… làm giảm nguy cơ thoái hóa đất

Thoái hóa đất là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng thiếu đất canh tác hiện nay ở vùng đồng bào DTTS. Giảm thiểu được tình trạng thoái hóa đất thì quỹ đất canh tác của người dân sẽ được đảm bảo, tài nguyên đất không bị lãng phí, bỏ hoang…

Hiện nay, tại một số tỉnh như Điện Biên, Sơn La, Lào Cai đã đưa ra một số giải pháp để giảm thiểu tình trạng thoái hóa đất. Đặc biệt đối với nhóm đất liên quan trực tiếp đến quỹ đất đất canh tác của người dân.

Đối với đất sản xuất nông nghiệp, các chuyên gia cho rằng, các địa phương cần ưu tiên ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ trong sản xuất hàng hóa đảm bảo chất lượng, năng suất sản phẩm đáp ứng nhu cầu thị trường và an ninh lương thực.

Đối với đất lâm nghiệp, cần phát triển lâm nghiệp toàn diện ở cả 3 loại rừng sản xuất, phòng hộ và đặc dụng. Trong đó, vùng sản xuất hình thành vùng nguyên liệu gỗ và cây đặc sản, … phù hợp trên đất bị thoái hóa nhẹ do xói mòn yếu, khô hạn nhẹ; đối với vùng đất bị thoái hóa nặng ưu tiên khoanh nuôi tái sinh trồng mới rừng và bảo vệ phục hồi rừng, phục hồi đất, giảm thiểu thoái hóa đất. Tiếp tục thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ cho vùng đồng bào các DTTS, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn như chương trình mục tiêu xoá đói giảm nghèo; hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt cho đồng bào DTTS nghèo và hộ nghèo ở xã, thôn bản đặc biệt khó khăn.

a1(1).jpg

Quá trình canh tác đất chưa phù hợp là nguyên nhân dẫn đến suy giảm độ phì của đất.

Đối với đất phi nông nghiệp, cần phát triển công nghiệp, đô thị, du lịch và cho các mục đích khác với tiêu chí tận dụng tối đa lợi thế theo khu vực đặc thù, hạn chế mức thấp nhất khai thác từ đất không bị thoái hóa, tập trung khai thác những vùng đất bị thoái hóa nặng. Để đảm bảo phát triển bền vững ứng phó với biến đổi khí hậu gắn với bảo vệ, phục hồi và giảm thiểu thoái hóa đất cần đảm bảo phát triển một số ngành hỗ trợ cho sản xuất nông lâm nghiệp. Phát triển hệ thống thủy lợi phục vụ đa mục tiêu, bảo vệ tài nguyên đất và nước, chú trọng xây dựng hoàn chỉnh hệ thống tưới, tiêu chủ động.

Đối với đất chưa sử dụng, cần đưa vào khai thác sử dụng theo hướng phù hợp với điều kiện trồng, khoanh nuôi, tái sinh rừng; phục hồi rừng phòng hộ, hoặc sản xuất phù hợp với sản xuất nông nghiệp: ưu tiên khai thác theo mô hình nông lâm kết hợp hoặc cây hàng năm, cây lâu năm kết hợp đảm bảo khai thác hiệu quả kinh tế từ đất nhưng vẫn phục hồi và bảo vệ đất.

Trao đổi với chúng tôi vấn đề này, ông Lò Văn Tiến, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Điện Biên, cho biết: Điện Biên sẽ tập trung thực hiện 6 nhóm giải pháp: trong đó chủ yếu về trồng tăng độ che phủ rừng; khuyến khích khai hoang, phủ xanh đất trống đồi núi trọc; đẩy nhanh tiến độ đưa đất chưa sử dụng vào trồng và khoanh nuôi, phục hồi rừng; phân vùng sản xuất, bố trí cơ cấu cây trồng hợp lý nhằm giảm thiểu thoái hóa đất; thực hiện hiệu quả công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng; chú trọng khuyến nông, khuyến lâm, giúp người dân tiếp cận các kỹ thuật mới về phân bón, bảo vệ đất, áp dụng các biện pháp kỹ thuật tổng hợp để đầu tư thâm canh sử dụng đất theo chiều sâu; chuyển đổi cơ cấu cây trồng, bố trí mùa vụ thích hợp, tránh thiên tai nhằm đem lại hiệu quả kinh tế cao, hạn chế quá trình thoái hóa đất và cải thiện độ phì của đất. – Ông Tiến nói.

Bài liên quan
  • Sơn La kiên định mục tiêu phát triển xanh, bền vững
    (TN&MT) - Năm 2022, trong khó khăn, thách thức, Đảng bộ, chính quyền, nhân dân các dân tộc tỉnh Sơn La đã nỗ lực đổi mới, có nhiều cách làm hay, hiệu quả, “về đích” với 27/28 chỉ tiêu đạt và vượt kế hoạch đề ra. Các chỉ tiêu xã hội, môi trường, chất lượng cuộc sống nhân dân có nhiều chuyển biến tích cực.

(0) Bình luận
Nổi bật
Bá Thước (Thanh Hóa): Nhiều điển hình sản xuất kinh doanh giỏi
Trong những năm qua, nhờ có nhiều chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế ở các huyện miền Núi, vùng sâu, vùng xa đã có nhiều khởi sắc. Đặc biệt, chỉ trong 2 năm 2021- 2023, huyện Bá Thước có 5 tập thể và 21 cá nhân được Chủ tịch UBND huyện tặng Giấy khen đạt thành tích xuất sắc trong phong trào nông dân thi đua SXKD giỏi cấp huyện, 30 cá nhân và 4 tập thể được Hội Nông dân khen thưởng.
Đừng bỏ lỡ
  • Bắc Quang – Hà Giang: Đưa nhiều chương trình vì mục tiêu giảm nghèo tới gần người dân
    Hàng loạt chương trình mục tiêu giảm nghèo của Trung ương và tỉnh Hà Giang đang được huyện Bắc Quang tích cực triển khai sâu rộng tới người dân thông qua các kế hoạch, đề án, dự án cụ thể và có kiểm tra, giám sát nghiêm túc, nhờ đó bước đầu đã giải quyết việc làm, tạo sinh kế bền vững cho người dân, nhất là đồng bào các dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa của huyện Bắc Quang.
  • Phú Yên: Tìm giải pháp cho những công trình nước sạch vùng nông thôn, vùng đồng bào DTTS
    (TN&MT) - Phú Yên là một trong số những địa phương chịu ảnh hưởng nặng nề của hạn hán. Người dân nhiều địa phương trong tỉnh, đặc biệt là khu vực miền núi thường xuyên thiếu nước sinh hoạt. Tuy nhiên, nghịch lý là hiện nay hàng chục công trình cấp nước sinh hoạt nông thôn tập trung do Nhà nước đầu tư xây dựng đã bị bỏ hoang từ nhiều năm qua.
  • Nuôi dê thương phẩm giúp nhiều hộ dân đổi đời
    Thời gian qua, việc chia sẻ kinh nghiệm nuôi dê thương phẩm và liên kết trong chăn nuôi, bao tiêu sản phẩm đang từng bước đem lại hiệu quả kinh tế lớn, đồng thời mở ra hướng đi mới cho hàng chục hộ dân ở huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang. Theo số liệu báo cáo, ước tính tổng đàn Dê thương phẩm của huyện đến hết tháng 6/2023 đạt khoảng 10.000 con.
  • Mường Lát (Thanh Hóa): Cuộc sống mới ở khu tái định cư
    Bản Ón, xã Tam Chung, huyện Mường Lát (Thanh Hóa) có 100% là đồng bào dân tộc Mông sinh sống. Đa số người dân trong bản thuộc diện hộ nghèo và cận nghèo. Phần lớn các hộ dân dựng nhà bên những sườn núi cheo leo, nên luôn phải đối mặt với nguy cơ lũ quét, sạt lở rất cao vào mùa mưa lũ. Nhưng giờ đây người dân trong bản không còn phải nơm nớp lo sợ, bởi khu tái định cư do Nhà nước đầu tư khang trang, đồng bào đã và đang bắt tay vào xây dựng cuộc sống mới.
  • Bắc Quang - Hà Giang: Nỗ lực giúp dân xóa nghèo bền vững
    Thực hiện Nghị quyết số 05-NQ/TU, ngày 1/11/2020 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Hà Giang về Chương trình cải tạo vườn tạp, phát triển kinh tế vườn hộ để tạo sinh kế cho người dân, giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021 - 2025, huyện Bắc Quang đã chủ động tuyên truyền, xây dựng kế hoạch và triển khai hiệu quả giúp hàng chục hộ dân xóa nghèo và vươn lên khá giả.
  • Sắc xanh xứ đạo xã Phú Sơn
    Bà con giáo xứ tại xã Phú Sơn, thị xã Nghi Sơn (Thanh Hóa) luôn nêu cao phương châm sống “tốt đời đẹp đạo”, tự giác nâng cao ý thức bảo vệ môi trường, giữ gìn vệ sinh đường làng, ngõ xóm.
  • Theo chân cán bộ kiểm lâm “cắm bản”
    (TN&MT) - Dọc theo những con đường đến với xã vùng biên Phiêng Pằn của huyện Mai Sơn (Sơn La), trên những quả đồi bạc màu, hoang hóa ngày nào, đang xanh lên màu xanh của những cánh rừng. Trong thành công ấy, có bóng dáng, sự nỗ lực quên mình của người kiểm lâm viên địa bàn ngày ngày “bám đất, bám rừng”.
  • Cây dược liệu- Cây xóa nghèo bền vững ở các huyện miền Núi
    Cùng với chính sách xóa đói, giảm nghèo của Chính phủ, trong những năm gần đây, Tỉnh ủy, UBND tỉnh Thanh Hóa đã đưa ra nhiều chương trình xóa đói, giảm nghèo cho bà con các huyện miền Núi. Trong những chương trình đó thì phát triển nguồn lực tại chỗ là một trong những thế mạnh của người dân như: Phát triển và bảo vệ rừng, trồng cây lâm nghiệp, nông nghiệp, trồng dược liệu… Nhờ đó, người dân vùng sâu, vùng xa Xứ Thanh đã thoát nghèo bền vững.
  • Lễ cầu mưa của dân tộc Hà Nhì
    (TN&MT) - Hàng năm từ 15/5 - 15/7 (âm lịch) người Hà Nhì ở Mường Nhé (Điện Biên) lại chuẩn bị cho Tết mùa mưa (Dế khù chà – theo tiếng Hà Nhì). Đây là dịp để người Hà Nhì cầu mong cho mưa thuận gió hòa, vụ mùa tốt tươi, con cháu họ được sum vầy hạnh phúc. Ngoài ý nghĩa tín ngưỡng tâm linh thì đó còn là thời điểm họ cảm tạ thần mưa đã dâng nước suối đủ tưới mát cây cối, ruộng đồng, không làm lũ ống, lũ quét... Cảm tạ đất trời đã che chở họ trong cả một năm qua.
  • Người Mạ giữ rừng vì giá trị truyền thống
    (TN&MT) - Nghề giữ rừng tại Vườn Quốc gia Tà Đùng (xã Đắk Som, huyện Đắk G’long) đã mang lại nguồn thu nhập cho các hộ đồng bào dân tộc thiểu số người Mạ từ khoản kinh phí từ dịch vụ môi trường rừng. Với đại đa số các hộ dân tại đây, giữ rừng không chỉ mang lại thu nhập mà còn là trách nhiệm với tổ tiên và các thế hệ mai sau bởi nghề rừng được xem như một nghề truyền thống.
  • Đồng bào Cơ Tu giữ rừng
    (TN&MT) - Ngàn đời nay, đồng bào Cơ Tu ở huyện Tây Giang (Quảng Nam) xem rừng như người Mẹ vĩ đại che chở mang lại sự sống cho dân làng. Chính từ sự ngưỡng vọng, tôn vinh, trân trọng ấy nên người dân Tây Giang luôn yêu quý, bảo vệ rừng.
  • Chính sách cấp nước sạch cho bà con dân tộc thiểu số
    (TN&MT) - Hiện nay, nhiều thôn bản vùng đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) và miền núi, điều kiện cơ sở hạ tầng còn rất khó khăn và thiếu thốn, đặc biệt là thiếu nguồn nước sạch cho sinh hoạt của người dân. Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021-2025 đã đưa vấn đề hỗ trợ nước sinh hoạt bao gồm hỗ trợ nước sinh hoạt phân tán và hỗ trợ nước sinh hoạt tập trung là một trong những trọng điểm.
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO