Thiết lập bộ bản đồ tài nguyên nước toàn diện trên lãnh thổ Việt Nam

Phương Anh | 04/11/2021, 14:42

(TN&MT) - Bộ TN&MT đang xây dựng và hoàn thiện Đề án: "Điều tra, đánh giá, lập bản đồ tài nguyên nước tỷ lệ 1:100.000 lãnh thổ Việt Nam" với mục tiêu trọng tâm là thành lập được bộ bản đồ tài nguyên nước tỷ lệ 1:100.000 và hệ thống lưu trữ, quản lý thông tin, dữ liệu về tài nguyên nước trên nền tảng số phục vụ phát triển kinh tế - xã hội và quốc phòng an ninh. Sáng 4/11 tại Hà Nội, Bộ TN&MT tổ chức họp trực tuyến Hội đồng thẩm định Đề án này.

 

Cấp thiết phục vụ phát triển KT-XH, quốc phòng an ninh

Theo Trung tâm Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước quốc gia - Đơn vị chủ trì thực hiện nhiệm vụ, các thông tin số liệu điều tra, đánh giá tài nguyên nước là nguồn số liệu quan trọng phục vụ công tác quản lý, quy hoạch, bảo vệ tài nguyên nước, phòng chống tác hại do nước gây ra. Tuy vậy, công tác điều tra, đánh giá tài nguyên nước đến nay còn hạn chế.

Cụ thể, về điều tra, đánh giá tài nguyên nước mặt, hiện mới thực hiện điều tra cơ bản được 34,08% sông suối trên phạm vi toàn quốc tập trung chủ yếu một số lưu vực sông lớn, vùng kinh tế với 625 sông suối có chiều dài trên 30km trên phạm vi toàn quốc đang thực hiện (ứng với tỷ lệ điều tra 1:100.000).

Cùng với đó, dựa trên số liệu đo đạc tài nguyên nước mặt sẽ đưa vào thực hiện đến năm 2025, dự thảo Đề án tổng kiểm kê tài nguyên nước đến năm 2025 đang được Bộ TN&MT dự kiến trình Chính phủ, các số liệu kiểm kê này đồng thời cũng là số liệu quan trọng phục vụ đánh giá tài nguyên nước.

Việc kế thừa kết quả đánh giá tài nguyên nước mặt khoảng 67% đối tượng điều tra, sử dụng lồng ghép số liệu tổng kiểm kê tài nguyên nước, đồng bộ hóa dữ liệu để thực hiện đánh giá tài nguyên nước mặt trên phạm vi toàn quốc rất cần được thực hiện.

Liên quan về tài nguyên nước dưới đất, đến nay, nước ta mới hoàn thành công tác thành lập bản đồ địa chất thủy văn toàn lãnh thổ Việt Nam tỷ lệ 1:500.000 (năm 1985), biên hội bản đồ tài nguyên nước dưới đất tỷ lệ 1:200.000 trên toàn quốc (năm 2018), các tỷ lệ điều tra đánh giá nguồn nước dưới đất, lập bản đồ địa chất thủy văn chi tiết hơn (ở tỷ lệ 1:100.000 đến 1:25.000) mới hoàn thành trên 26% diện tích toàn quốc và đang thực hiện trên các vùng lãnh thổ khác với khoảng 23% diện tích toàn quốc.

Các kết quả trên cần được kế thừa và thực hiện điều tra bổ sung, đồng bộ hóa dữ liệu tài nguyên nước dưới đất để lập bản đồ tài nguyên nước dưới đất tỷ lệ thống nhất trên phạm vi toàn quốc.

Một góc Đồng bằng sông Cửu Long  

Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư được Đảng và Nhà nước xác định là yêu cầu tất yếu khách quan, mang lại cả cơ hội và thách thức cho tất cả các ngành kinh tế - xã hội. Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 và Chương trình chuyển đổi số tài nguyên và môi trường đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 đòi hỏi lĩnh vực tài nguyên và môi trường nói chung, tài nguyên nước nói riêng phải chuyển đổi từ môi trường truyền thống sang môi trường số, tăng cường áp dụng các giải pháp công nghệ số trong thu nhận, xử lý thông tin, dữ liệu nhằm giảm được chi phí và thời gian, đem lại sản phẩm thông tin, dữ liệu tin cậy, cập nhật, đáp ứng yêu cầu khai thác, chia sẻ trên các nền tảng số và phục vụ cho phát triển kinh tế số, Chính phủ số.

Do đó, yêu cầu lập bản đồ tài nguyên nước trên toàn quốc phải đảm bảo áp dụng chuyển đổi số, đồng bộ về thông tin, số liệu; bao quát thống nhất về phạm vi phân chia các nguồn nước trên các vùng lãnh thổ và phản ánh đúng hiện trạng nguồn nước trong giai đoạn hiện nay.

Đồng thời, thiết lập được hệ thống lưu trữ, quản lý thông tin, dữ liệu về tài nguyên nước kết nối, trao đổi thông tin, dữ liệu tài nguyên nước với nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu quốc gia, phục vụ quy hoạch, quản lý, khai thác sử dụng và bảo vệ tài nguyên nước theo phương thức tổng hợp, toàn diện và hiệu quả cao nhằm bảo đảm an ninh nguồn nước quốc gia cho trước mắt và lâu dài, góp phần phát triển bền vững, bảo vệ môi trường, bảo đảm an sinh xã hội và quốc phòng, an ninh trước diễn biến của biến đổi khí hậu, nước biển dâng và sự suy giảm nguồn nước.

Từ thực trạng điều tra, đánh giá tài nguyên nước, lập bản đồ tài nguyên nước với phạm vi đã được điều tra còn hạn chế, số liệu điều tra cũ đã quá lâu chưa được cập nhật đã nêu, đặc biệt là trước yêu cầu quản lý trong thời kỳ cách mạng công nghiệp 4.0, các thông tin, dữ liệu hiện nay còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu của quản lý, khó có khả năng cung cấp thông tin bao quát, toàn diện cho Chính phủ số trước các thách thức ngày càng tác động mạnh mẽ của biến đổi khí hậu, khai thác nước ở thượng nguồn và khai thác, sử dụng thiếu bền vững đối với tài nguyên nước của Việt Nam. Trên cơ sở đó, Bộ TN&MT nhận thấy việc thực hiện Đề án là rất cần thiết và cấp bách, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng an ninh.

5 nội dung trọng tâm của Đề án

Trong quá trình xây dựng Đề án, Bộ TN&MT đã phối hợp với các Bộ, ngành và các địa phương có liên quan để lấy ý kiến của các chuyên gia, các nhà khoa học.

Phạm vi thực hiện của Đề án bao gồm toàn bộ diện tích tự nhiên lãnh thổ Việt Nam

Các nội dung, khối lượng thực hiện Đề án “Điều tra, đánh giá, lập bản đồ tài nguyên nước tỷ lệ 1:100.000 lãnh thổ Việt Nam” bảo đảm tính đồng bộ, đúng quy trình, quy phạm, các số liệu điều tra, khảo sát dễ dàng cập nhật và chia sẻ. Trên cơ sở xác định các yêu cầu về quy định kỹ thuật lập bản đồ tài nguyên nước tỷ lệ 1:100.000, các thông tin, dữ liệu kế thừa kết quả của các nhiệm vụ đã được triển khai từ trước đến nay của các Bộ, ngành, địa phương… đồng thời, lồng ghép, phối hợp với các nhiệm vụ đã và đang đề xuất thực hiện nhằm tránh trùng lắp, lãng phí nguồn lực. Từ đó, đề xuất các nội dung, nhiệm vụ cần phải thực hiện bảo đảm đáp ứng mục tiêu của Đề án.

Cụ thể, phạm vi thực hiện của Đề án bao gồm toàn bộ diện tích tự nhiên lãnh thổ Việt Nam. Đối với tài nguyên nước mặt: là các sông, suối, kênh, rạch, hồ, đầm, phá, công trình khai thác sử dụng nước mặt trên các lưu vực thuộc lãnh thổ Việt Nam; đối với tài nguyên nước dưới đất: là các thành tạo chứa nước trên toàn bộ diện tích tự nhiên thuộc lãnh thổ Việt Nam.

Đề án tập trung vào 5 nội dung trọng tâm là xây dựng bộ công cụ hỗ trợ tác nghiệp số trong công tác điều tra, khảo sát, đánh giá tài nguyên nước; công cụ thu thập, thu nhận, chuẩn hóa, tích hợp, lưu trữ, khai thác thông tin dữ liệu.

Thu thập, tổng hợp, chuẩn hóa thông tin, dữ liệu tài nguyên nước và xây dựng hệ thống lưu trữ thông tin phục vụ khai thác dữ liệu số về tài nguyên nước

Điều tra, khảo sát, đo đạc bổ sung; phân tích, đánh giá tài nguyên nước và khả năng đáp ứng nguồn nước cho các mục đích phát triển kinh tế xã hội, bảo đảm quốc phòng an ninh.

Biên tập, xây dựng và hoàn thiện bộ bản đồ tài nguyên nước tỷ lệ 1:100.000 lãnh thổ Việt Nam.

Tổng hợp kết quả điều tra, đánh giá, lập bản đồ tài nguyên nước của Đề án; kết nối, tích hợp, trao đổi thông tin, dữ liệu tài nguyên nước với nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu quốc gia.

Sản phẩm của Đề án bao gồm: Báo cáo tổng hợp kết quả thực hiện Đề án “Điều tra, đánh giá, lập bản đồ tài nguyên nước tỷ lệ 1:100.000 lãnh thổ Việt Nam”; Báo cáo kết quả điều tra, đánh giá lập bản đồ tài nguyên nước tỷ lệ 1:100.000 cho từng lưu vực sông; các báo cáo chuyên đề, thuyết minh bản đồ theo từng lưu vực sông và theo từng tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.

Bộ bản đồ tài nguyên nước tỷ lệ 1:100.000; Bộ bản đồ điện tử (Atlas) tài nguyên nước mặt và nước dưới đất lãnh thổ Việt Nam, theo từng lưu vực sông và theo từng tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Hệ thống thông tin dữ liệu về tài nguyên nước kết nối, trao đổi với nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu quốc gia; Các mô hình đánh giá tài nguyên nước; Phần mềm phục vụ công tác điều tra, khảo sát.

Góp ý tại cuộc họp, các thành viên Hội đồng thẩm định đều đánh giá tính cấp thiết của việc xây dựng và thực hiện Đề án: "Điều tra, đánh giá, lập bản đồ tài nguyên nước tỷ lệ 1:100.000 lãnh thổ Việt Nam". Đồng thời, Hội đồng thẩm định cũng có những góp ý chi tiết, cụ thể để hoàn thiện Dự thảo Đề án về nội dung, phương pháp, sản phẩm của nhiệm vụ và cách thức tổ chức thực hiện.

Nhất trí với ý kiến của các thành viên Hội đồng, ông Châu Trần Vĩnh - Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước, Phó Chủ tịch Hội đồng thẩm định đề nghị Trung tâm Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước quốc gia tiếp thu các ý kiến đóng góp của Hội đồng, nhanh chóng chỉnh sửa hoàn thiện Đề án trong thời gian sớm nhất để trình lãnh đạo Bộ TN&MT  xem xét, trước khi trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.

Theo Quy hoạch tổng thể điều tra cơ bản tài nguyên nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050, mục tiêu đến năm 2030 là lập bản đồ địa chất thủy văn cho các tầng, các cấu trúc chứa nước, phức hệ chứa nước và bản đồ tài nguyên nước dưới đất trên phạm vi toàn quốc với tỷ lệ 1:100.000; đánh giá, xác định được các đặc trưng cơ bản của tài nguyên nước mặt; đồng thời lập được bản đồ tài nguyên nước mặt trên phạm vi toàn quốc, trên các lưu vực sông.

Bài liên quan

(0) Bình luận
Nổi bật
Bảo tồn nét văn hóa đặc trưng của dân tộc Thái ở Quan Sơn
Đời sống văn hóa các dân tộc ở huyện Quan Sơn (Thanh Hóa) phản ánh sinh động sâu sắc sự đoàn kết chung sống, hòa hợp giữa các dân tộc Thái, Kinh, Mường, Mông... Trong đó dân tộc Thái có lịch sử cư trú lâu đời và có số dân đông nhất huyện Quan Sơn mang nhiều dấu ấn đặc trưng, phản ánh nét văn hóa đặc sắc trải dài theo lịch sử. Để hiểu rõ hơn về những nét nổi bật trong văn hóa của đồng bào Thái, phóng viên Báo Tài nguyên và Môi trường đã có cuộc trao đổi với ông Lê Văn Thơ, Trưởng phòng Văn hóa thông tin huyện Quan Sơn.
Đừng bỏ lỡ
  • TP. Vinh (Nghệ An): Tất cả các mẫu nước sạch đều đạt yêu cầu
    Mới đây, vào ngày 06/9/2023, Trung tâm Kiểm soát bệnh tật tỉnh Nghệ An đã có báo cáo về kết quả giám sát chất lượng nước sạch sử dụng vào mục đích sinh hoạt tại các nhà máy nước cung cấp cho thành phố Vinh và các vùng phụ cận. Theo đó, tất cả 10/10 mẫu nước sạch đều đạt QCĐP 01:2021/NA.
  • Quảng Ngãi: Nhiều bất cập trong đầu tư công trình nước sạch
    Bằng nhiều nguồn kinh phí khác nhau, những năm qua tỉnh Quảng Ngãi đầu tư hàng trăm công trình nước sạch, mỗi công trình có kinh phí đầu ít nhất là 500 triệu đồng, thậm chí có những công trình hơn 10 tỷ đồng. Thế nhưng, vì nhiều lý do có hơn 90% các công trình cấp nước ở nông thôn không hoạt động hoặc hoạt động kém hiệu quả gây lãng phí.
  • Mù Cang Chải (Yên Bái): Nhanh chóng khắc phục kênh mương thuỷ lợi sau mưa lũ
    (TN&MT) – Sau khi bị ảnh hưởng do mưa lũ gây ra vào đầu tháng 8/2023, huyện Mù Cang Chải (Yên Bái) đã tích cực phối hợp với các đơn vị tu sửa lại hệ thống kênh mương thuỷ lợi đảm bảo đủ nước cho bà con sản xuất vụ mùa.
  • Ninh Thuận: Thực hiện vận hành các hồ chứa trong mùa mưa lũ năm 2023
    (TN&MT) - Theo nhận định xu thế khí tượng thủy văn mùa mưa, bão, lũ năm 2023 của Trung tâm dự báo Khí tượng thủy văn quốc gia, trên các lưu vực sông cả nước sẽ có những diễn biến hết sức phức tạp, phạm vi ảnh hưởng do mưa bão rộng, đặc biệt là khu vực Trung Bộ, Tây Nguyên và Nam Bộ, cảnh báo nguy cơ lũ lớn, lũ quét và sạt lở đất tại các tỉnh miền Trung trong thời gian từ tháng 9 đến tháng 11.
  • Để những mạch nguồn chảy mãi
    Việt Nam được dệt thêu bởi 3.450 sông, suối - tạo nên sự đa dạng cảnh sắc, con người và văn hóa độc đáo. Thế nhưng, sông ngòi - những mạch sống của các hệ sinh thái đang bị đầu độc bởi con người. Ngày nay, khó có thể kiếm được con sông nào giữ được một vài nét nguyên sơ.
  • Lạng Sơn: Đưa nước sạch đến với người dân vùng khó khăn
    (TN&MT) - Là tỉnh miền núi có mạng lưới sông suối, ao, hồ khá đa dạng với hơn 270 hồ chứa, trên 970 đập dâng các loại, tỉnh Lạng Sơn đã và đang triển khai nhiều giải pháp đảm bảo cấp nước an toàn cho khu vực nông thôn, góp phần tiết kiệm, giảm tỷ lệ thất thoát nước, bảo vệ môi trường sinh thái, nâng cao chất lượng cuộc sống nhân dân.
  • Đà Nẵng và Quảng Nam thống nhất đề nghị thành lập tổ chức quản lý lưu vực sông Vu Gia - Thu Bồn
    Sáng 29/8, UBDN TP. Đà Nẵng và UBND tỉnh Quảng Nam đồng tổ chức Hội thảo ký kết các văn bản làm cơ sở tiếp tục thử nghiệm ban điều phối quản lý tổng hợp tài nguyên nước lưu vực sông Vu Gia – Thu Bồn và vùng bờ Quảng Nam – Đà Nẵng.
  • Phù Yên (Sơn La): Tăng cường quản lý tài nguyên nước
    (TN&MT) - UBND huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La vừa ban hành Công văn số 1284/UBND-TNMT, về tăng cường công tác quản lý nhà nước về tài nguyên nước trên địa bàn huyện.
  • Luật hóa quy định bảo vệ lòng, bờ, bãi sông
    (TN&MT) - Để nâng cao vai trò của cơ quan quản lý tài nguyên nước trong việc thống nhất các hoạt động bảo vệ, quản lý tài nguyên lưu vực sông hiện nay, đồng thời tăng cường chức năng, tính hiệu lực, hiệu quả về bảo vệ lòng, bờ, bãi sông, phù hợp với yêu cầu thực tế, Dự thảo Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) đã sửa đổi, bổ sung và luật hóa các quy định liên quan đến bảo vệ lòng, bờ, bãi sông.
  • Tìm giải pháp làm "sống lại" 4 con sông nội đô
    (TN&MT) - Chiều 22/8, tại Hà Nội, Tạp chí Môi trường và Đô thị Việt Nam phối hợp với Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Hà Nội tổ chức Tọa đàm “Làm “sống lại” 4 con sông nội đô: Tô Lịch – Kim Ngưu – Lừ - Sét”. TS.LS Đồng Xuân Thụ, Tổng biên tập Tạp chí Môi trường và Đô thị Việt Nam và GS.TS Trần Đức Hạ, Ủy viên Ban thường vụ  Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Hà Nội, nguyên Viện trưởng Viện nghiên cứu Cấp thoát nước và Môi trường Việt Nam chủ trì buổi tọa đàm.
  • Kiến tạo quản lý bền vững tài nguyên nước: Đặt niềm tin vào thế hệ trẻ
    (TN&MT) - Diễn đàn các nhà khoa học trẻ vì tài nguyên nước bền vững 2023 (YP4W 2023) với chủ đề "An ninh nguồn nước và khả năng chống chịu với biến đổi khí hậu tại Việt Nam" vừa được UNESCO Việt Nam phối hợp với Viện Quy hoạch Thủy lợi, Bộ NN&PTNT tổ chức tại tòa nhà Xanh Một Liên hợp quốc (Hà Nội).
  • Tạo hành lang pháp lý đồng bộ quản lý tài nguyên nước
    (TN&MT) - Sau 10 năm thực hiện Nghị quyết 24-NQ/TW về “Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường”, đến nay, đã có khoảng hơn 24.000 công trình khai thác, sử dụng nước và xả nước thải vào nguồn nước được quản lý từ Trung ương đến địa phương thông qua công cụ cấp phép.
  • Hương Khê- Hà Tĩnh: Bất ổn ở một Dự án cấp nước sạch
    Hứng nước mưa, sắm dụng cụ đi xin nước về dùng là cách mà hàng trăm hộ dân ở xã biên giới Hương Vĩnh, huyện Hương Khê (Hà Tĩnh) đã làm nhiều năm nay để có nước đảm bảo vệ sinh sử dụng. Vậy nhưng, khi Dự án nhà máy cung cấp nước sạch được đầu tư xây dựng chính ngay trên địa bàn thì những người dân này lại không được đưa vào đối tượng phục vụ ?.
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO