Quy hoạch tổng hợp lưu vực sông Srêpôk góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng nước bền vững

Thủy Nguyễn | 24/09/2021, 14:24

(TN&MT) - Sáng 24/9, tại Hà Nội, Thứ trưởng Bộ TN&MT Lê Công Thành chủ trì cuộc họp trực tuyến Hội đồng liên ngành thẩm định Quy hoạch tổng hợp lưu vực sông Srêpôk đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050.

Thứ trưởng Lê Công Thành phát biểu tại cuộc họp trực tuyến

Cùng dự tại các điểm cầu có đại diện Bộ: Tài nguyên và Môi trường, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Xây dựng, Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính, Công Thương, Giao thông Vận tải, Văn hóa, Thể thao và Du lịch và đại diện lãnh đạo UBND các tỉnh: Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông và Lâm Đồng.

Lưu vực sông Srêpok đối mặt với nhiều thách thức

Báo cáo tại cuộc họp, ông Nguyễn Ngọc Hà - Phó Tổng Giám đốc Trung tâm Quy hoạch và Điều tra Tài nguyên nước Quốc gia cho biết, sông Srêpôk là nguồn nước liên quốc gia - một trong những phụ lưu lớn của dòng Mê Công, bắt nguồn trên lãnh thổ Việt Nam và chảy sang Campuchia gặp sông Sê San tại Stung treng cùng với dòng Sê Công tạo thành lưu vực sông 3S trước khi nhập vào dòng chính Mê Công. Trên lãnh thổ Việt Nam, lưu vực sông Srêpôk có diện tích 18.230 km2 gồm 4 tỉnh Kon Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông và Lâm Đồng.

Đây là vùng có vị trí chiến lược hết sức quan trọng về kinh tế, chính trị, quốc phòng đối với cả nước và khu vực Đông Dương, có nhiều tiềm năng ưu thế để phát triển kinh tế nông nghiệp, lâm nghiệp, chăn nuôi, đa dạng về văn hóa và bản sắc dân tộc.

Đại diện Trung tâm Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước quốc gia báo cáo về nội dung Quy hoạch tổng hợp LVS Srêpôk

Mặc dù, đã đạt được thành quả đáng kể trong phát triển kinh tế - xã hội, các tỉnh trên lưu vực sông Srêpôk vẫn phải đối mặt với nhiều thách thức như: kết nối hạ tầng phục vụ thông thương, yêu cầu sản xuất hàng hóa nông sản theo hướng chất lượng cao, công nghiệp hóa hiện đại hóa sản xuất,.... Bên cạnh đó, nguồn tài nguyên nước có hạn cũng chịu những áp lực của phát triển kinh tế xã hội, nhu cầu nước cho các ngành ngày càng gia tăng, ảnh hưởng của việc gia tăng hồ chứa thủy điện thượng nguồn trong thời gian qua đến hạ lưu,....

Ngoài những khó khăn, thách thức về nguồn nước, khai thác, sử dụng nước trên lưu vực sông Srêpôk còn đang phải đối mặt với những bất cập trong công tác quản lý khai thác, sử dụng nước của các ngành, địa phương trên lưu vực. Hiện nay, hầu hết các ngành, địa phương trên lưu vực đã có quy hoạch khai thác, sử dụng nước như quy hoạch thủy lợi, quy hoạch thủy điện... và quy hoạch tài nguyên nước của tỉnh. Tuy nhiên, các quy hoạch này mới chỉ tập trung vào việc đề xuất các giải pháp khai thác, sử dụng nước đáp ứng nhu cầu của từng ngành, địa phương mà chưa có đánh giá tổng thể về khả năng khai thác, sử dụng của từng nguồn nước trên lưu vực cũng như chưa xác định được chức năng của nguồn nước, các nguồn nước ưu tiên cho phát triển mang tính chiến lược trên lưu vực sông,... từ đó, có giải pháp phân bổ và bảo vệ tài nguyên nước mang tính tổng hợp.

Mặt khác, việc quản lý khai thác, sử dụng tài nguyên nước trên lưu vực sông Srêpôk cần thực hiện các quy chế sử dụng nước theo quy định trong Hiệp định hợp tác Mê Công (1995). Việc hợp tác và phối hợp giữa Việt Nam và Campuchia trong quản lý các lưu vực sông này đã và đang đặt ra nhu cầu cấp thiết, nhằm quản lý tốt hơn tài nguyên nước, bảo đảm phát triển bền vững không chỉ trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam mà trên toàn lưu vực sông Mê Công.

Chính vì vậy, để giải quyết những tồn tại trong khai thác, sử dụng, bảo vệ tài nguyên nước và phòng, chống tác hại do nước gây ra trong điều kiện biến đổi khí hậu nhằm chủ động được nguồn nước phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của các ngành, địa phương trên lưu vực sông Srêpôk thì cần thiết phải có quy hoạch tổng hợp lưu vực sông.

Cấp thiết lập Quy hoạch tổng hợp Lưu vực sông Srêpôk

Theo đại diện Trung tâm Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước quốc gia, Quy hoạch tổng hợp lưu vực sông Srêpôk được thực hiện bởi các chuyên gia trong và ngoài nước thông qua dự án Quản lý tổng hợp tài nguyên nước Mê Công được hỗ trợ bởi Ngân hàng Thế giới (World Bank) và Trung tâm Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước quốc gia với vai trò là tư vấn phụ chỉ định hỗ trợ thủ tục trình duyệt kết quả thực hiện. Phạm vi của Quy hoạch là toàn bộ lưu vực sông Srêpôk thuộc các tỉnh Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông và Lâm Đồng với tổng diện tích 18.230 km2. Đối tượng quy hoạch là nguồn nước mặt (6 sông, suối liên tỉnh) và nguồn nước dưới đất (các tầng chứa nước khe nứt, lỗ hổng).

Mục tiêu quy hoạch nhằm điều hòa, phân bổ công bằng, hợp lý nguồn nước giữa các đối tượng sử dụng nước, các vùng, các tỉnh trên lưu vực sông có xét đến sự biến động nguồn nước do tác động của biến đổi khí hậu. Bảo vệ được các hệ sinh thái phụ thuộc vào nước, kiểm soát được tình trạng gia tăng ô nhiễm nguồn nước ở các khu dân cư, khu đô thị lớn, khu công nghiệp tập trung. Phát triển tài nguyên nước, nâng cao hiệu quả kinh tế sử dụng nước và phòng, chống các tác hại do nước gây ra.

Theo đó đến năm 2030, Quy hoạch nhằm đặt mục tiêu xác định được chức năng của các nguồn nước sử dụng cho các mục đích sử dụng làm cơ sở quản lý, cấp phép về tài nguyên nước và giám sát tuân thủ chức năng nguồn nước. Đề xuất được các giá trị dòng chảy tối thiểu trên các dòng chính, tại các điểm kiểm soát làm cơ sở quản lý và điều phối các hoạt động khai thác sử dụng nước. Xác định được lượng nước dự phòng, thời gian dự phòng, khu vực dự phòng và cơ chế sử dụng để cấp cho sinh hoạt cho các khu dân cư tập trung trong trường hợp xảy ra sự cố ô nhiễm nước nguồn nước mặt. Bảo vệ chức năng của các nguồn nước đảm bảo mục tiêu chất lượng các nguồn nước mặt, nước dưới đất sử dụng cho các mục đích sử dụng tại các khu vực thuộc tỉnh Đắk Lắk, Đắk Nông và Lâm Đồng.

Đến năm 2050, chủ động được nguồn nước phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội, có xét đến tác động của biến đổi khí hậu. Nâng cao hiệu quả sử dụng nước, ưu tiên phân bổ nguồn nước cho các đối tượng sử dụng nước có hiệu quả kinh tế cao và có sử dụng nước tái tạo. Bảo tồn các nguồn nước có ý nghĩa quan trọng đối với các hoạt động văn hóa hóa, tín ngưỡng; bảo vệ hệ sinh thái phụ thuộc vào nguồn nước và cảnh quan môi trường các dòng sông.

Quy hoạch đã phân vùng quy hoạch thành 10 tiểu lưu vực: Ia Đrăng, Ia Lốp, Thượng Ea H’leo, Hạ Ea H’leo, Thượng Srêpôk, Hạ Srêpôk, Thượng Ea Krông Ana, Hạ Ea Krông Ana, Thượng Ea Krông Nô, Hạ Ea Krông Nô. Tổng lượng nước có thể khai thác, sử dụng trên lưu vực sông Srêpok đến năm 2030, không vượt quá 18,816 tỷ m3. Đến năm 2050, không vượt quá 20,027 tỷ m. Dựa vào hiện trạng nhu cầu khai thác sử dụng nước, đề án đã xây dựng, đánh giá và lựa chọn kịch bản để đưa ra dự báo nhu cầu khai thác sử dụng tài nguyên nước. Tổng nhu cầu khai thác, sử dụng nước trên toàn lưu vực sông Srêpok đến năm 2030, khoảng 2,7 tỷ m3, đến năm 2050, khoảng 3,67 tỷ m3.

Bên cạnh đó, nội dung Quy hoạch cũng tính toán giá trị dòng chảy tối thiểu, nguồn nước dự phòng cấp nước cho sinh hoạt, lượng nước phân bổ cho các đối tượng khai thác, sử dụng (trong điều kiện bình thường, trong trường hợp thiếu nước và trong trường hợp xảy ra hạn hán, thiếu nước nghiêm trọng); công trình điều tiết, khai thác, sử dụng nước và phát triển tài nguyên nước; bảo vệ, phát triển rừng phòng hộ đầu nguồn; bảo vệ chất lượng nước; phòng, chống sạt, lở bở, bãi sông, chống sụt, lún đất do khai thác nước dưới đất; mạng giám sát tài nguyên nước, khai thác, sử dụng nước và chất lượng nước.

Đại diện UBND tỉnh Đắk Lắk đóng góp ý kiến cho Dự thảo Quy hoạch tổng hợp LVS Srêpok

Góp ý tại cuộc họp, các thành viên Hội đồng thẩm định đều đánh giá tính cấp thiết của việc thực hiện nhiệm vụ lập Quy hoạch tổng hợp lưu vực sông Srêpôk đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Quy hoạch sẽ góp phần quan trọng đối với công cuộc phát triển kinh tế - xã hội tại các địa phương thuộc lưu vực; đồng thời, quy hoạch này cũng là cơ sở, định hướng để triển khai các quy hoạch khác trên địa bàn các tỉnh.

Bên cạnh đó, Hội đồng thẩm định đã có những góp ý chi tiết, cụ thể để hoàn thiện Dự thảo nhiệm vụ Quy hoạch về nội dung, phương pháp; sản phẩm của Nhiệm vụ và cách thức tổ chức thực hiện trong thời gian sớm nhất. Hội đồng cũng nhất trí thông qua Quy hoạch sau khi đơn vị thực hiện tiếp thu, chỉnh sửa các góp ý của các thành viên hội đồng trước khi trình phê duyệt.

Kết luận tại cuộc họp, Thứ trưởng Bộ TN&MT Lê Công Thành ghi nhận và đánh giá cao những ý kiến phát biểu của các thành viên Hội đồng thẩm định. Các ý kiến góp ý đã thể hiện tâm huyết, trách nhiệm của các đại biểu nhằm xây dựng bản Quy hoạch đảm bảo chất lượng và phù hợp với các quy hoạch cấp cao hơn, cũng như các quy hoạch của các ngành có liên quan.

Để hoàn thiện dự thảo Quy hoạch, Thứ trưởng đề nghị Trung tâm Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước quốc gia tiếp thu các ý kiến của các thành viên hội đồng để nghiên cứu, tổng hợp vào hồ sơ Dự thảo trong đó cần tập trung rà soát các nội dung liên quan đến phân vùng chức năng nguồn nước, mục đích sử dụng, đề xuất các công trình phát triển nguồn nước trong kỳ quy hoạch, bảo vệ nguồn sinh thủy, nguồn nước dưới đất,… nhằm đảm bảo các vấn đề phát triển bền vững, phòng chống thiên tai, phòng chống tác hại do nước gây ra. Đồng thời, tiếp tục phối hợp với Cục Quản lý tài nguyên nước đẩy nhanh tiến độ, sớm trình Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường xem xét, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch tổng hợp lưu vực sông Srêpôk thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050.

Bài liên quan
  • Quản lý tài nguyên nước lưu vực sông Mê Công gắn với các mục tiêu phát triển bền vững
    (TN&MT) - Kiểm toán Nhà nước vừa phát hành báo cáo kiểm toán việc quản lý nguồn nước lưu vực sông (LVS) Mê Công gắn với việc thực hiện mục tiêu phát triển bền vững. Qua đó, Kiểm toán Nhà nước cho rằng, cần thiết phải xây dựng các điều khoản, chế tài cụ thể để giải quyết tranh chấp đối với các bất đồng giữa các quốc gia thành viên trong việc quản lý và sử dụng nước LVS Mê Công.

(0) Bình luận
Nổi bật
Phát huy bản sắc văn hóa đặc sắc của 20 dân tộc Lai Châu
(TN&MT) - Với 20 dân tộc, trên 86% dân số là đồng bào dân tộc thiểu số, bức tranh văn hóa tỉnh Lai Châu có sự phong phú, đa dạng đồng thời mang những nét đặc trưng của từng dân tộc. Làm thế nào để khai thác thế mạnh này cho phát triển kinh tế - xã hội đồng thời gìn giữ, bảo tồn nét đặc sắc ấy và đưa hình ảnh, văn hóa các dân tộc Lai Châu đến bạn bè, du khách bốn phương?
Đừng bỏ lỡ
  • Tủa Chùa… “khát”

    Tủa Chùa… “khát”

    17:02 20/03/2023
    (TN&MT) - Tủa Chùa, một huyện kém phát triển của tỉnh Điện Biên. Tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo toàn huyện chiếm tỷ lệ 59,3%. Những ngày giáp hạt tháng 3, nhiều hộ gia đình dân tộc Mông đứt bữa, ăn mèn mén thay cơm. Thế nhưng ở đây, gạo vẫn chưa phải là thứ họ cần nhất. Mà thứ họ cần là nước! Tủa Chùa đang mất an ninh nguồn nước.
  • Hậu Giang: Đảm bảo nguồn nước cho phát triển kinh tế nông nghiệp
    (TN&MT) - Thời gian qua, tỉnh Hậu Giang đã tăng cường công tác quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng hiệu quả, hợp lý các nguồn tài nguyên nước (TNN), phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, hướng đến mục tiêu giảm nghèo bền vững của địa phương. Để hiểu rõ hơn về vấn đề này, PV Báo TN&MT đã có cuộc trao đổi với ông Trương Cảnh Tuyên, Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh Hậu Giang.
  • Tiếp tục rà soát, thể chế hóa đầy đủ các chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước để hoàn thiện Luật Tài nguyên nước (sửa đổi)
    Chiều 15/3, dưới sự chủ trì của Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội tiến hành xem xét cho ý kiến về dự án Luật Tài nguyên nước (sửa đổi). Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải điều hành Phiên họp.
  • Điện Biên: Quan tâm đảm bảo an ninh nguồn nước
    (TN&MT) - Nước là nhu cầu tất yếu trong đời sống hằng ngày của mỗi người, mỗi gia đình và là yếu tố quan trọng trong việc bảo vệ sức khỏe, cải thiện điều kiện sinh hoạt cho người dân. Chính vì vậy, việc bảo đảm an ninh nguồn nước luôn là vấn đề, được tỉnh Điện Biên đặc biệt quan tâm, đầu tư.
  • Nước sạch nông thôn: Tiêu chí quan trọng để giảm nghèo
    (TN&MT) - Xác định nước sạch là nhu cầu thiết yếu của người dân, thời gian qua, Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương đã chú trọng triển khai Chương trình bảo đảm cấp nước an toàn khu vực nông thôn, tập trung đầu tư công trình cấp nước sạch nhằm từng bước cải thiện điều kiện sinh hoạt, vệ sinh, nâng cao sức khỏe cho dân cư nông thôn, giảm bệnh tật, tạo cơ hội xóa đói, giảm nghèo, góp phần xây dựng nông thôn mới.
  • Bà Rịa - Vũng Tàu: Đảm bảo an toàn nguồn nước phục vụ giảm nghèo bền vững
    (TN&MT) - Tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã và đang triển khai đồng bộ các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý, khai thác và sử dụng tài nguyên nước, góp phần thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững của địa phương. PV Báo TN&MT đã có cuộc phỏng vấn ông Đặng Sơn Hải, Phó Giám đốc Sở TN&MT tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xung quanh vấn đề này.
  • Ngày Quốc tế hành động vì các dòng sông (14/3): Nỗ lực bảo vệ, hồi sinh “mạch sống” của Trái Đất
    (TN&MT) - Ngày Quốc tế Hành động vì các dòng sông (14/3) là dịp để các quốc gia trên thế giới cùng chung tiếng nói bảo vệ các dòng sông - mạch sống của các hệ sinh thái; đề ra những chính sách quản lý công bằng, phát triển bền vững; tìm những giải pháp tốt hơn liên quan đến nước và năng lượng; hợp tác trong xử lý ô nhiễm môi trường, đảm bảo an ninh nguồn nước.
  • Bình Thuận: Siết chặt quản lý, đảm bảo nguồn nước sạch cho người dân
    (TN&MT) - Thời gian qua, tỉnh Bình Thuận đã triển khai đồng bộ nhiều giải pháp nhằm quản lý, khai thác, sử dụng hiệu quả, bền vững tài nguyên nước (TNN) cũng như giúp người dân địa phương tiếp cận nguồn nước sạch, hợp vệ sinh, an toàn phục vụ cho sinh hoạt và sản xuất, góp phần giảm nghèo bền vững.
  • Long An: Sử dụng, bảo vệ hiệu quả nguồn nước ngọt đê duy trì giảm nghèo bền vững
    (TN&MT) - Tỉnh Long An đã và đang tăng cường công tác quản lý, sử dụng hiệu quả tài nguyên nước (TNN), bảo đảm an ninh nguồn nước; đồng thời, khuyến khích đổi mới tư duy sản xuất, tạo việc làm ổn định, giúp người dân nâng cao đời sống, góp phần thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững của địa phương.
  • Quản lý tài nguyên nước ở Tiền Giang: Hướng đến mục tiêu giảm nghèo bền vững
    (TN&MT) - Tiền Giang đã và đang tăng cường công tác quản lý, khai thác và sử dụng hiệu quả, hợp lý nguồn tài nguyên nước (TNN); đồng thời, triển khai nhiều giải pháp nhằm giải quyết nhu cầu về nguồn nước phục vụ sinh hoạt, sản xuất cho người dân, hướng đến mục tiêu giảm nghèo bền vững của địa phương.
  • Huy động trí tuệ chuyên gia trong sửa đổi Luật Tài nguyên nước
    Ngày 11/3, tại Hà Nội, Viện Nghiên cứu lập pháp thuộc Ủy ban thường vụ Quốc hội tổ chức Hội thảo góp ý Luật tài nguyên nước (sửa đổi). Ông Nguyễn Văn Hiển, Viện trưởng Viện Nghiên cứu lập pháp và ông Nguyễn Ngọc Sơn, Ủy viên Thường trực, Ủy ban khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội đồng chủ trì Hội thảo.
  • Quảng Nam: Để người dân được tiếp cận nguồn nước bền vững
    (TN&MT) - Nhằm góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng và làm giảm nguy cơ suy thoái, cạn kiệt nguồn tài nguyên nước, thời gian qua tỉnh Quảng Nam đã triển khai đồng bộ các giải pháp, trong đó chú trọng công tác tuyên truyền, huy động sự tham gia của người dân vào công tác bảo vệ nguồn tài nguyên quan trọng này.
  • Bổ sung một số quy định về tài chính nước trong Dự thảo Luật Tài nguyên nước (sửa đổi): Góp phần tính đúng, tính đủ giá trị sử dụng nước
    (TN&MT) - Tài chính tài nguyên nước là nội dung đã được quy định ở Luật Tài nguyên nước 2012, là cơ sở để huy động nguồn lực cho bảo vệ tài nguyên nước quốc gia, thu được tiền ngân sách nhờ nguồn cấp quyền khai thác và thuế phí tài nguyên nước.
  • Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội thẩm tra sơ bộ dự án Luật Tài nguyên nước (sửa đổi)
    (TN&MT) - Chiều ngày 6/3, Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội tổ chức Hội nghị Thẩm tra sơ bộ dự án Luật Tài nguyên nước (sửa đổi). Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội Lê Quang Huy chủ trì Hội nghị.
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO