Căn bệnh khiến gần 22.000 chị em Việt Nam mắc mỗi năm: Chuyên gia khuyến cáo gì?

Sức khỏe - Ngày đăng : 14:27, 03/04/2023

Các chuyên gia ung thư nhấn mạnh ung thư vú là căn bệnh có tỷ lệ khỏi bệnh lên đến 90% được phát hiện sớm, điều trị kịp thời và đúng phương pháp; Trình độ chẩn đoán sớm và điều trị ung thư vú ở Việt Nam đang tiệm cận với các quốc gia có nền y học phát triển...

Thực hiện X- quang vú để sàng lọc ung thư vú ngay cả với trường hợp không sờ thấy khối u

Thông tin tại Hội nghị khoa học với chủ đề "Cập nhật kiến thức trong chẩn đoán và điều trị ung thư vú" lần thứ nhất do Bệnh viện ĐKQT Vinmec Times City tổ chức ngày 2/4 cho biết, ung thư vú là bệnh ung thư có tỷ lệ mắc đứng hàng thứ nhất trong các bệnh ung thư ở nữ giới trên thế giới và tại Việt Nam. Trên thế giới mỗi năm có khoảng 2 triệu người mắc mới và khoảng 600.000 người tử vong.

Tại Việt Nam, theo thống kê của Tổ chức ung thư toàn cầu (Globocan), mỗi năm ung thư vú chiếm 25% bệnh ung thư ở nữ giới với gần 22.000 ca mắc mới và hơn 9.000 ca tử vong.

48c3cfe0c1ef1db144fe-1680437547996543006436.jpg
Giáo sư Đào Thu Hà - Trưởng đơn vị hình ảnh tuyến vú, Bệnh viện Henri Mondo (Cộng hòa Pháp) phát biểu tại hội nghị khoa học "Cập nhật Kiến thức trong chẩn đoán và điều trị ung thư vú".

Các chuyên gia ung thư nhấn mạnh ung thư vú là căn bệnh có tỷ lệ khỏi bệnh lên đến 90% được phát hiện sớm, điều trị kịp thời và đúng phương pháp; phát hiện càng sớm thì việc điều trị càng đơn giản, hiệu quả, tỷ lệ chữa khỏi cao và chi phí điều trị thấp. Tuy nhiên, yếu tố tiên quyết vẫn là việc điều trị khi ung thư đang ở giai đoạn sớm. Nếu như tỷ lệ sống sau 5 năm ở giai đoạn rất sớm đạt 98%, ở giai đoạn cuối tỷ lệ này chỉ còn khoảng 10%.

TS.BS Nguyễn Thu Hương - Giám đốc Service Line và IPU Vú, Bệnh viện ĐKQT Vinmec Times City, Cố vấn chuyên môn cho Mạng lưới ung thư vú Việt Nam cho biết thêm, ca mắc ung thư vú tại Việt Nam ngày càng tăng và trẻ hóa và vẫn còn rất nhiều trường hợp đến bệnh viện điều trị muộn.

"Tôi đã từng tiếp nhận điều trị những ca bệnh ung thư vú khi đến bệnh viện ở giai đoạn muộn, đó là khi đã chảy dịch máu núm vú 1 bên ngực, có hạch ở vùng nách, thậm chí đã di căn. Như vậy việc điều trị sẽ kém hiệu quả hơn. Do đó, chúng tôi khuyến cáo ngay từ khi chưa có dấu hiệu gì, chị em từ 40 tuổi trở cũng nên thăm khám, tầm soát, sàng lọc ung thư vú theo đúng hướng dẫn của Tổ chức Y tế thế giới. Việc sàng lọc cần thực hiện X- quang vú ngay cả với trường hợp không có triệu chứng, dấu hiệu gì, không sờ thấy khối u. Việc này cần được thực hiện mỗi năm một lần như khám sức khỏe định kỳ"- TS.BS Thu Hương nhấn mạnh.

Trình độ chẩn đoán sớm và điều trị ung thư vú ở Việt Nam đang tiệm cận với các quốc gia có nền y học phát triển

Chủ tọa hội nghị, GS.TS.BS Đào Thu Hà - Trưởng đơn vị hình ảnh tuyến vú, Bệnh viện Henri Mondo (Cộng hòa Pháp) cho biết việc áp dụng các kỹ thuật tiên tiến về chẩn đoán và can thiệp ung thư vú sẽ giúp bệnh nhân có được kết quả điều trị tích cực, khả quan ngay tại Việt Nam mà không cần ra nước ngoài.

sinh-thiet-duoi-huong-dan-xquang-1680437569914688129813.png
Các bác sĩ thực hiện kỹ thuật sinh thiết tổn thương vú dưới hướng dẫn X-quang cho một bệnh nhân.

Theo TS.BS Nguyễn Thu Hương, trong chẩn đoán bệnh, có những tổn thương vú hoàn toàn không nhìn thấy được trong siêu âm mà chỉ được phát hiện thông qua chụp X-quang, đòi hỏi sinh thiết mẫu bệnh phẩm dưới hướng dẫn X-quang để có được kết quả chính xác nhất. Kỹ thuật này sẽ giúp chẩn đoán sớm và chính xác nhiều trường hợp đặc biệt khó như trên bệnh nhân có túi ngực, trường hợp vú rất mỏng hay ca bệnh với các cụm vi vôi hóa rất nhỏ chỉ 2mm.

Về điều trị, kỹ thuật xạ hình hạch gác trong phẫu thuật cũng là một kỹ thuật mới, tiên tiến và mang lại lợi ích to lớn cho người bệnh. Hạch gác là một hạch, hoặc một nhóm hạch đầu tiên mà các tế bào ung thư xuất hiện trước khi lây lan đến các hạch khác. Với kỹ thuật này, các bác sĩ sẽ xác định chính xác vị trí hạch gác để bóc tách trong phẫu thuật, giúp bệnh nhân tránh được việc nạo vét hạch không cần thiết, từ đó giảm thiểu các biến chứng như rối loạn cảm giác, phù tay, mất thẩm mỹ cho người bệnh.

Không chỉ cập nhật kiến thức về các phương pháp mới, trong khuôn khổ hội nghị, các bác sĩ tham dự đã trực tiếp thực hành trên mô hình một số kỹ thuật can thiệp dưới hướng dẫn siêu âm (chọc hút tế bào bằng kim nhỏ, sinh thiết tổn thương vú bằng kim lõi và kim lớn) và hướng dẫn X-quang (đặt định vị kim dây, sinh thiết tổn thương tuyến vú bằng kim lớn).

c062b540bb4f67113e5e-16804375586171074042570.jpg
TS.BS Nguyễn Thu Hương trao đổi tại Hội nghị khoa học "Cập nhật Kiến thức trong chẩn đoán và điều trị ung thư vú"

"Từ kết quả thực hành cũng như các báo cáo, thảo luận trong hội nghị, chúng ta có cơ sở tin tưởng rằng trình độ chẩn đoán sớm và điều trị ung thư vú ở Việt Nam đang tiệm cận với xu hướng ở các quốc gia có nền y học phát triển như Pháp hay Hàn Quốc, giúp người bệnh có cơ hội được điều trị tốt hơn, đảm bảo chất lượng cuộc sống"- TS. BS Nguyễn Thu Hương nhấn mạnh.

Hội nghị khoa học "Cập nhật Kiến thức trong chẩn đoán và điều trị ung thư vú" quy tụ các diễn giả là chuyên gia đầu ngành đến trên thế giới và tại Việt Nam.

Sự kiện thu hút sự quan tâm đặc biệt của y giới, hơn 400 chuyên gia, bác sĩ của các bệnh viện trên cả nước đã đăng ký tham gia trực tiếp và trực tuyến. Các bác sĩ tham gia hội nghị cũng được cấp chứng chỉ đào tạo y khoa liên tục (CME), khẳng định nỗ lực không ngừng tiếp thu kiến thức mới vì hiệu quả chăm sóc sức khỏe cho người bệnh.

13 bài báo cáo chuyên sâu về các phương pháp trong chẩn đoán, can thiệp sớm và điều trị ung thư vú, trong đó nổi bật về giá trị lâm sàng là kỹ thuật sinh thiết tổn thương vú dưới hướng dẫn X-quang và xạ hình hạch gác trong mổ đã được trình bày tại hội nghị. Đây là các kỹ thuật phức tạp giúp phát hiện sớm bất thường liên quan tới ung thư vú để đưa ra phương pháp can thiệp kịp thời, mang lại hiệu quả điều trị cao cho bệnh nhân.

PV