Nho Quan (Ninh Bình): Tận dụng đất hoang đồi núi phát triển kinh tế vùng DTTS

Tuyết Chinh | 20/07/2021, 13:01

(TN&MT) - Những năm qua, nhiều diện tích đất hoang vùng đồi núi đã được bà con đồng bào dân tộc thiểu số ở xã Phú Long (huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình) tận dụng và khai thác để trồng cây na dai đem lại giá trị kinh tế cao, nhờ đó đời sống đồng bào ngày càng khởi sắc.

Từ vùng đất đá cằn cỗi…

Phú Long là một xã vùng cao của huyện miền núi Nho Quan với địa hình nhiều thung lũng, núi đá, vùng rừng núi rậm rạp. Toàn xã có 1.802 hộ và 6.526 khẩu, trong đó có 2.291 người dân tộc Mường, chủ yếu sinh sống bằng nghề nông nghiệp.

Ông Bùi Văn Hiếu, Chủ tịch UBND xã Phú Long cho biết, trên địa bàn xã có khoảng 200 ha diện tích đất đá lộ đầu, trước đây bà con chủ yếu trồng ngô, sắn… hiệu quả kinh tế rất kém. Vùng đất này rất cằn cỗi, bên dưới cào lên chủ yếu là đá mạt, canh tác cây màu rất cực và không năng suất.

Cách đây hơn chục năm về trước, việc trồng cây na dai đã bắt đầu nhen nhóm tại một số hộ dân trong xã nhưng chỉ mang tính chất nhỏ lẻ và chỉ trồng một vụ chính trong năm. Đất không phụ lòng người, từ những năm đầu trồng thử nghiệm cây na trên mảnh đất khô cằn đã cho thấy hiệu quả kinh tế đạt được khác xa so với các giống cây trồng trước kia.

Từ những diện tích nhỏ ban đầu, đến nay toàn xã Phú Long có khoảng 100 hộ trồng na dai, với tổng diện tích khoảng 125 ha. Sau nhiều năm canh tác, kỹ thuật trồng na của bà con cũng ngày càng được nâng lên, quả na to, mẫu mã đẹp, năng suất na tăng lên rõ rệt. Đặc biệt, nhờ bí quyết ép vườn na cho quả liên tục, năng suất quả na tăng gấp đôi so với thông thường, đạt 10 tấn quả/ha, thu nhập của bà con khởi sắc, tăng lên gấp đôi. Đây chính là chìa khóa giúp bà con nơi đây thành công với mô hình trồng na trái vụ, đem lại kinh tế cao hơn so với tất cả các loại cây ăn quả khác.

Vườn na phủ xanh vùng đất hoang đồi núi ở Phú Long

Thực tế cho thấy, đất Phú Long phù hợp với cây na dai. Tuy nhiên, theo cách trồng truyền thống, na chỉ cho thu hoạch một vụ trong năm. Vì vậy, nhiều hộ nông dân đã tìm hiểu, học hỏi kỹ thuật, đẩy mạnh thâm canh, ngắt lá, tỉa cành; thụ phấn chủ động cho cây na để có thể thu hoạch 2 vụ/năm. Những quả na trái vụ đã và đang giúp người trồng na Phú Long tăng thêm thu nhập.

Với giá bán tại vườn luôn ổn định từ 20.000 - 30.000 đồng/kg tùy loại, 1 ha trồng cho thu nhập trung bình khoảng 250 triệu đồng. Sau khi trừ hết chi phí, mỗi ha đất trồng na bà con ở đây lãi gần 150 triệu đồng/năm.

“Phủ xanh” bằng những triền na

Là một thành viên trong HTX trồng na sạch, ông Nguyễn Văn Thuật ở thôn 4, xã Phú Long, huyện Nho Quan cho hay, trước kia gia đình ông cũng trồng ngô, khoai, mía... nhưng mãi không khá. Từ khi chuyển sang trồng na, gia đình ông có thu nhập ổn định, cuộc sống dần khởi sắc hơn trước rất nhiều.

Đáng chú ý, trong những năm qua, các thành viên Tổ hợp tác trồng na xã Phú Long đã chủ động áp dụng phương thức sản xuất sạch, thân thiện môi trường. Điển hình như trong khâu canh tác, các hộ loại bỏ hoàn toàn hóa chất độc hại, chỉ sử dụng phân bón hữu cơ, thuốc bảo vệ thực vật sinh học.

Việc sử dụng phân bón hữu cơ luôn được các hộ tính toán kỹ lưỡng về liều lượng, thời gian cách ly, để vừa đảm bảo nhu cầu sinh trưởng của cây, vừa giảm thiểu ô nhiễm môi trường, tránh tình trạng thoái hóa đất.

“Những năm trước, khi chưa ứng dụng khoa học kỹ thuật vào chăm sóc na trái vụ, quả thường có nhiều sâu bệnh, mẫu mã xấu. Những năm gần dây, nhờ tuân thủ quy trình sản xuất sạch, thân thiện môi trường, nên chất lượng quả được đảm bảo, giá bán cao hơn”, chị Trịnh Thị Hương, thành viên Tổ hợp tác chia sẻ.

Người dân nơi đây đã học hỏi kỹ thuật ngắt lá, tỉa cành; thụ phấn chủ động cho cây na để có thể thu hoạch 2 vụ/năm.

Bên cạnh những cây trồng chủ lực của xã Phú Long như dứa, mía, cây na trái vụ đang dần khẳng định là một trong những cây trồng thế mạnh, phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu, góp phần giảm nghèo, nâng cao thu nhập cho người dân. Hiện nhiều hộ dân ở địa phương đã chuyển đổi diện tích sản xuất kém hiệu quả sang trồng na.

Ông Đinh Đức Thọ, Trưởng phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Nho Quan đánh giá, những năm qua, diện tích đất hoang đồi núi ở Nho Quan nói chung, xã Phú Long nói riêng đã được đưa vào cải tạo và sử dụng khá hiệu quả. Hiện, toàn huyện còn khoảng 779,7 ha đất hoang đồi núi chưa được sử dụng.

Diện tích đất hoang đồi núi thường gắn với đất rừng sản xuất đã giao cho các hộ, chủ yếu nằm ở một số xã của huyện Nho Quan như: Cúc Phương, Thạch Bình, Phú Long… Để sử dụng và khai thác hiệu quả diện tích đất này, những năm qua trên địa bàn đã triển khai trồng cây lâm nghiệp, trồng thảo dược, trồng cỏ, thức ăn chăn nuôi.

“Địa phương cũng đang nghiên cứu một số giống cây phù hợp với thổ những, điều kiện khí hậu để trồng ở những diện tích đất hoang đồi núi còn lại, tận dụng và khai thác hiệu quả tài nguyên đất ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số”, ông Thọ khẳng định.

Bài liên quan

(0) Bình luận
Nổi bật
Bài học đồng lòng - từ khóa của thành công
Cách trung tâm huyện 23,5km, Chiềng Khoa như khối cơ bắp cuộn lên trên cánh tay của Vân Hồ. Nơi đây, ba năm về trước, xã Chiềng Khoa được công nhận xã Nông thôn mới đầu tiên. Đi tìm “điểm sáng” Chiềng Khoa, chúng tôi được nghe rất nhiều về hai chữ “đồng lòng”.
Đừng bỏ lỡ
  • Phú Yên: Tìm giải pháp cho những công trình nước sạch vùng nông thôn, vùng đồng bào DTTS
    (TN&MT) - Phú Yên là một trong số những địa phương chịu ảnh hưởng nặng nề của hạn hán. Người dân nhiều địa phương trong tỉnh, đặc biệt là khu vực miền núi thường xuyên thiếu nước sinh hoạt. Tuy nhiên, nghịch lý là hiện nay hàng chục công trình cấp nước sinh hoạt nông thôn tập trung do Nhà nước đầu tư xây dựng đã bị bỏ hoang từ nhiều năm qua.
  • Nuôi dê thương phẩm giúp nhiều hộ dân đổi đời
    Thời gian qua, việc chia sẻ kinh nghiệm nuôi dê thương phẩm và liên kết trong chăn nuôi, bao tiêu sản phẩm đang từng bước đem lại hiệu quả kinh tế lớn, đồng thời mở ra hướng đi mới cho hàng chục hộ dân ở huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang. Theo số liệu báo cáo, ước tính tổng đàn Dê thương phẩm của huyện đến hết tháng 6/2023 đạt khoảng 10.000 con.
  • Mường Lát (Thanh Hóa): Cuộc sống mới ở khu tái định cư
    Bản Ón, xã Tam Chung, huyện Mường Lát (Thanh Hóa) có 100% là đồng bào dân tộc Mông sinh sống. Đa số người dân trong bản thuộc diện hộ nghèo và cận nghèo. Phần lớn các hộ dân dựng nhà bên những sườn núi cheo leo, nên luôn phải đối mặt với nguy cơ lũ quét, sạt lở rất cao vào mùa mưa lũ. Nhưng giờ đây người dân trong bản không còn phải nơm nớp lo sợ, bởi khu tái định cư do Nhà nước đầu tư khang trang, đồng bào đã và đang bắt tay vào xây dựng cuộc sống mới.
  • Bắc Quang - Hà Giang: Nỗ lực giúp dân xóa nghèo bền vững
    Thực hiện Nghị quyết số 05-NQ/TU, ngày 1/11/2020 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Hà Giang về Chương trình cải tạo vườn tạp, phát triển kinh tế vườn hộ để tạo sinh kế cho người dân, giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021 - 2025, huyện Bắc Quang đã chủ động tuyên truyền, xây dựng kế hoạch và triển khai hiệu quả giúp hàng chục hộ dân xóa nghèo và vươn lên khá giả.
  • Sắc xanh xứ đạo xã Phú Sơn
    Bà con giáo xứ tại xã Phú Sơn, thị xã Nghi Sơn (Thanh Hóa) luôn nêu cao phương châm sống “tốt đời đẹp đạo”, tự giác nâng cao ý thức bảo vệ môi trường, giữ gìn vệ sinh đường làng, ngõ xóm.
  • Theo chân cán bộ kiểm lâm “cắm bản”
    (TN&MT) - Dọc theo những con đường đến với xã vùng biên Phiêng Pằn của huyện Mai Sơn (Sơn La), trên những quả đồi bạc màu, hoang hóa ngày nào, đang xanh lên màu xanh của những cánh rừng. Trong thành công ấy, có bóng dáng, sự nỗ lực quên mình của người kiểm lâm viên địa bàn ngày ngày “bám đất, bám rừng”.
  • Cây dược liệu- Cây xóa nghèo bền vững ở các huyện miền Núi
    Cùng với chính sách xóa đói, giảm nghèo của Chính phủ, trong những năm gần đây, Tỉnh ủy, UBND tỉnh Thanh Hóa đã đưa ra nhiều chương trình xóa đói, giảm nghèo cho bà con các huyện miền Núi. Trong những chương trình đó thì phát triển nguồn lực tại chỗ là một trong những thế mạnh của người dân như: Phát triển và bảo vệ rừng, trồng cây lâm nghiệp, nông nghiệp, trồng dược liệu… Nhờ đó, người dân vùng sâu, vùng xa Xứ Thanh đã thoát nghèo bền vững.
  • Lễ cầu mưa của dân tộc Hà Nhì
    (TN&MT) - Hàng năm từ 15/5 - 15/7 (âm lịch) người Hà Nhì ở Mường Nhé (Điện Biên) lại chuẩn bị cho Tết mùa mưa (Dế khù chà – theo tiếng Hà Nhì). Đây là dịp để người Hà Nhì cầu mong cho mưa thuận gió hòa, vụ mùa tốt tươi, con cháu họ được sum vầy hạnh phúc. Ngoài ý nghĩa tín ngưỡng tâm linh thì đó còn là thời điểm họ cảm tạ thần mưa đã dâng nước suối đủ tưới mát cây cối, ruộng đồng, không làm lũ ống, lũ quét... Cảm tạ đất trời đã che chở họ trong cả một năm qua.
  • Người Mạ giữ rừng vì giá trị truyền thống
    (TN&MT) - Nghề giữ rừng tại Vườn Quốc gia Tà Đùng (xã Đắk Som, huyện Đắk G’long) đã mang lại nguồn thu nhập cho các hộ đồng bào dân tộc thiểu số người Mạ từ khoản kinh phí từ dịch vụ môi trường rừng. Với đại đa số các hộ dân tại đây, giữ rừng không chỉ mang lại thu nhập mà còn là trách nhiệm với tổ tiên và các thế hệ mai sau bởi nghề rừng được xem như một nghề truyền thống.
  • Đồng bào Cơ Tu giữ rừng
    (TN&MT) - Ngàn đời nay, đồng bào Cơ Tu ở huyện Tây Giang (Quảng Nam) xem rừng như người Mẹ vĩ đại che chở mang lại sự sống cho dân làng. Chính từ sự ngưỡng vọng, tôn vinh, trân trọng ấy nên người dân Tây Giang luôn yêu quý, bảo vệ rừng.
  • Chính sách cấp nước sạch cho bà con dân tộc thiểu số
    (TN&MT) - Hiện nay, nhiều thôn bản vùng đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) và miền núi, điều kiện cơ sở hạ tầng còn rất khó khăn và thiếu thốn, đặc biệt là thiếu nguồn nước sạch cho sinh hoạt của người dân. Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021-2025 đã đưa vấn đề hỗ trợ nước sinh hoạt bao gồm hỗ trợ nước sinh hoạt phân tán và hỗ trợ nước sinh hoạt tập trung là một trong những trọng điểm.
  • Kinh nghiệm giữ rừng của người Tày Lạng Sơn
    Thôn Đông Đằng, xã Bắc Quỳnh (Bắc Sơn, Lạng Sơn) nằm cạnh một rừng nghiến cổ thụ xanh mướt. Bao đời nay, bằng tấm lòng yêu rừng, giữ rừng của người dân nơi đây, hàng trăm gốc nghiến quý giá vẫn giữ nguyên vẹn, sừng sững như minh chứng sống cho những thăng trầm, đổi thay trên vùng đất cách mạng Bắc Sơn.
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO