Nâng cao hiệu quả phòng chống lũ quét, sạt lở đất ở miền núi

Thanh Tùng | 15/07/2021, 16:42

(TN&MT) - Lũ quét, sạt lở đất đang là một trong những loại hình thiên tai nguy hiểm đe dọa trực tiếp tới tính mạng và tài sản người dân đồng bào khu vực miền núi. Chính vì vậy, tìm giải pháp nâng cao hiệu quả dự báo, cảnh báo lũ quét, sạt lở đất trở thành yêu cầu bức thiết khi mùa mưa bão đang đến.

Bất thường, khó dự báo

Theo các chuyên gia khí tượng thủy văn, tính chất bất thường, khó dự báo, cảnh báo cũng như tập quán sinh sống ven bờ sông, bờ suối và sườn đồi của một bộ phận đồng bào khu vực miền núi là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến nhiều vụ lũ quét, sạt lở đất.

Nhiều vụ lũ quét, sạt lở đất nghiêm trọng những năm gần đây có thể kể đến như: Vụ lở đất tại bản Sáng Tùng (xã Tà Ngảo, huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu) vào 2 giờ sáng 27/6/2018; vụ lũ ống, lũ quét tại bản Sa Ná (xã Na Mèo, huyện Quan Sơn, tỉnh Thanh Hóa) rạng sáng 3/8/2019; vụ sạt lở đất thảm khốc ở nóc (thôn) ông Đề, xã Trà Leng, huyện Nam Trà My, tỉnh Quảng Nam chiều ngày 28/10/2020; hay gần đây nhất, lũ quét trên suối Nậm Liệp, thôn Minh Hạ 1, xã Minh Lương (H.Văn Bàn, Lào Cai) vào 3 giờ sáng ngày 17/4/2021... Những vụ lũ quét, sạt lở đất này đều gây thiệt hại rất lớn về người và tài sản của người dân.

Hiện trường vụ sạt lở đất tại Thủy điện Rào Trăng 3 (Thừa Thiên - Huế). Ảnh: TTXVN

Các số liệu thống kê cho thấy, riêng trên địa bàn 15 tỉnh miền núi phía Bắc hiện có 116 huyện, 730 xã có nguy cơ cao lũ quét; 136 huyện, 1.226 xã có nguy cơ cao sạt lở đất; 123 huyện, 559 xã có nguy cơ cao sạt lở bờ sông, bờ suối. Năm 2020, lũ quét, sạt lở đất đã cho thấy sức tàn phá khủng khiếp. Trong thời gian ngắn, từ chiều 28/10 đến đầu tháng 11, hàng loạt vụ sạt lở đất gây hậu quả nghiêm trọng đã xảy ra ở miền Trung. Tính từ đầu năm đến ngày 18/11/2020, có 132 người chết và mất tích do sạt lở đất, lũ quét.

Theo ông Nguyễn Văn Tiến, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Phòng, chống thiên tai (Bộ NN&PTNT), có hai nguyên nhân chính gây ra loại hình thiên tai này. Nguyên nhân khách quan là do đặc điểm địa chất yếu, kết hợp với mưa lớn kéo dài, làm cho đất bị bão hòa nước gây sạt lở. Điều tra của Viện Khoa học địa chất và khoáng sản - Bộ TN&MT cho thấy, hiện có trên 10.000 điểm có nguy cơ cao sạt lở ở khu vực miền núi. Nguyên nhân chủ quan là do tác động của hoạt động phát triển kinh tế-xã hội mà không tính đến các yếu tố rủi ro thiên tai như xây dựng công trình làm tăng độ dốc sườn đồi núi khi thi công tác tuyến giao thông, đào xẻ núi lấy mặt bằng để xây dựng công trình, nhà ở…

Mặc dù là loại hình thiên tai nguy hiểm, nhưng hiện nay công tác dự báo, cảnh báo lũ quét, sạt lở đất còn những khó khăn nhất định. Theo Tổng cục trưởng Tổng cục KTTV Trần Hồng Thái, Việt Nam hiện chưa có khả năng dự báo được lũ quét, sạt lở đất (mới cảnh báo nguy cơ có khả năng xảy ra lũ quét tại một vùng hoặc khu vực rộng) do các mô hình dự báo quá trình mưa, lũ còn hạn chế. Mặt khác, do thiếu dữ liệu về quan trắc, địa hình, thiếu thông tin số liệu về cấu trúc thảm phủ, lớp đất, tính chất cơ lý của đất. Sự thay đổi về sử dụng đất, phá rừng, khai thác khoáng sản, làm đường… cũng là những nhân tố gây khó khăn trong công tác dự báo lũ quét, sạt lở đất.

Tăng cường phát triển hệ thống quan trắc mưa, lưu lượng tự động giúp cảnh báo sớm lũ quét, sạt lở đất. Ảnh: Thanh Tùng

Tăng cường chất lượng bản tin cảnh báo

Để từng bước nâng cao hiệu quả công tác cảnh báo lũ quét, sặt lở đất, Tổng cục KTTV cho biết đang tăng cường chất lượng bản tin cảnh báo lũ quét, sạt lở đất như: tăng cường độ phân giải trong bản đồ dự báo mưa định lượng lên 1-3 km, sử dụng đồng hoá nhiều nguồn dữ liệu tạo bản đồ mưa như dữ liệu quan trắc, ra đa, mô hình số. Bản đồ cảnh báo nguy cơ lũ quét được xử lý kết hợp bổ sung các lớp thông tin về nguy cơ lũ quét, sạt lở đất kết hợp với phân ngưỡng mưa để tạo ra bản đồ cảnh báo nguy cơ lũ quét, sạt lở đất thời gian thực.

Cùng với đó, Tổng cục KTTV sẽ tập trung tăng cường phát triển hệ thống quan trắc mưa, lưu lượng tự động, tăng cường cảnh báo sớm sạt lở đất, lũ bùn đá, lũ quét thông qua việc xây dựng công nghệ đồng hóa dữ liệu cảnh báo mưa, dông, hạn cực ngắn cho khu vực miền núi; xác định ngưỡng mưa gây sạt lở, lũ quét cho khu vực miền núi, khu vực trọng điểm xảy ra sạt lở, lũ quét; cùng với đó là nghiên cứu ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo, xây dựng hệ thống cảnh báo tác động và cảnh báo rủi ro do sạt lở đất.

Về lâu dài, chúng ta sẽ triển khai các nghiên cứu, điều tra về trượt lở đất đá, lũ ống, lũ quét trên diện rộng ở tỷ lệ lớn và đi cùng với phân vùng cảnh báo nguy cơ để giúp Chính phủ cũng như các địa phương có thể nắm bắt, hiểu biết về hiện trạng và nguy cơ trượt lở đất đá, lũ ống, lũ quét và có định hướng quy hoạch phát triển kinh tế xã hội, đồng thời có giải pháp phòng tránh và giảm thiểu thiệt hại về tính mạng và tài sản cho nhân dân.

Theo ông Nguyễn Văn Tiến, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Phòng, chống thiên tai, trong Chiến lược quốc gia Phòng, chống thiên tai đến năm 2030 mới được Thủ tướng Chính phủ ban hành cũng đã xác định các giải pháp hạn chế thiệt hại do sạt lở đất cho khu vực miền núi. Cụ thể, nâng cao chất lượng công tác dự báo mưa định lượng, mưa, lũ cục bộ; xây dựng, củng cố hệ thống theo dõi, giám sát và cảnh báo sạt lở đất. Phân vùng rủi ro thiên tai, lập bản đồ cảnh báo thiên tai nhất là khu vực có nguy cơ cao xảy ra sạt lở đất chi tiết đến cấp xã; xây dựng công trình phòng, chống sạt lở đất tại các khu vực trọng điểm, xung yếu.

Đồng thời, chủ động di dời dân cư sinh sống tại khu vực không bảo đảm an toàn ven sông, suối, sườn đồi núi có nguy cơ cao xảy ra sạt lở đất. Tổ chức xây dựng, diễn tập, triển khai phương án sơ tán dân cư khẩn cấp và khắc phục hậu quả khi xảy ra tình huống nguy hiểm tại những khu vực chưa thể di dời theo phương châm 4 tại chỗ. Quản lý chặt chẽ việc xây dựng nhà ở, cơ sở hạ tầng, nhất là khu dân cư, công trình giao thông, khắc phục tình trạng xây dựng nhà ở, công trình tại khu vực có nguy cơ sạt lở, bạt sườn dốc để xây dựng công trình.

Tăng cường quản lý, bảo vệ và phát triển rừng, nâng cao chất lượng rừng, nhất là rừng tự nhiên, phòng hộ. Hướng dẫn, hỗ trợ người dân xây dựng nhà ở đảm bảo phòng chống, giảm thiểu thiệt hại do thiên tai.

Ông Nguyễn Văn Tiến, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Phòng, chống thiên tai. Ảnh: Thanh Tùng

Thực hiện nhiệm vụ Thủ tướng Chính phủ giao, Tổng cục Phòng, chống thiên tai đang xây dựng Dự án di dời dân cư khẩn cấp vùng thiên tai, trong đó có di dời dân khu vực nguy cơ cao sạt lở đất đến nơi an toàn; đồng thời đang triển khai chỉ đạo, hướng dẫn các địa phương triển khai Đề án nâng cao nhận thức cộng đồng và quản lý rủi ro thiên tai dự vào cộng đồng đến năm 2020 (Quyết định số 553/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ). Trước mắt, tập trung vào giải pháp nâng cao năng lực dự báo, cảnh báo, chủ động sơ tán người dân tại vùng nguy cơ cao sạt lở đến nơi an toàn”.

Ông Nguyễn Văn Tiến

Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Phòng, chống thiên tai.

 

Bài liên quan
  • Điện Biên: Vùng đồng bào DTTS sử dụng tài nguyên đất hiệu quả
    (TN&MT) - Nếu trước đây, đồng bào các dân tộc huyện Mường Ảng (Điện Biên) chỉ có lối canh tác phá rừng làm nương, tra ngô, trỉa hạt theo thói quen canh tác hái lượm thô sơ. Thì giờ đây, người dân huyện Mường Ảng đã có trái cây xuất khẩu ra thị trường lớn, tình trạng chặt phá rừng làm nương không còn, tỷ lệ che phủ rừng cao nhất tỉnh Điện Biên đạt 52% năm 2020.

(0) Bình luận
Nổi bật
Bá Thước (Thanh Hóa): Nhiều điển hình sản xuất kinh doanh giỏi
Trong những năm qua, nhờ có nhiều chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế ở các huyện miền Núi, vùng sâu, vùng xa đã có nhiều khởi sắc. Đặc biệt, chỉ trong 2 năm 2021- 2023, huyện Bá Thước có 5 tập thể và 21 cá nhân được Chủ tịch UBND huyện tặng Giấy khen đạt thành tích xuất sắc trong phong trào nông dân thi đua SXKD giỏi cấp huyện, 30 cá nhân và 4 tập thể được Hội Nông dân khen thưởng.
Đừng bỏ lỡ
  • Bắc Quang – Hà Giang: Đưa nhiều chương trình vì mục tiêu giảm nghèo tới gần người dân
    Hàng loạt chương trình mục tiêu giảm nghèo của Trung ương và tỉnh Hà Giang đang được huyện Bắc Quang tích cực triển khai sâu rộng tới người dân thông qua các kế hoạch, đề án, dự án cụ thể và có kiểm tra, giám sát nghiêm túc, nhờ đó bước đầu đã giải quyết việc làm, tạo sinh kế bền vững cho người dân, nhất là đồng bào các dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa của huyện Bắc Quang.
  • Phú Yên: Tìm giải pháp cho những công trình nước sạch vùng nông thôn, vùng đồng bào DTTS
    (TN&MT) - Phú Yên là một trong số những địa phương chịu ảnh hưởng nặng nề của hạn hán. Người dân nhiều địa phương trong tỉnh, đặc biệt là khu vực miền núi thường xuyên thiếu nước sinh hoạt. Tuy nhiên, nghịch lý là hiện nay hàng chục công trình cấp nước sinh hoạt nông thôn tập trung do Nhà nước đầu tư xây dựng đã bị bỏ hoang từ nhiều năm qua.
  • Nuôi dê thương phẩm giúp nhiều hộ dân đổi đời
    Thời gian qua, việc chia sẻ kinh nghiệm nuôi dê thương phẩm và liên kết trong chăn nuôi, bao tiêu sản phẩm đang từng bước đem lại hiệu quả kinh tế lớn, đồng thời mở ra hướng đi mới cho hàng chục hộ dân ở huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang. Theo số liệu báo cáo, ước tính tổng đàn Dê thương phẩm của huyện đến hết tháng 6/2023 đạt khoảng 10.000 con.
  • Mường Lát (Thanh Hóa): Cuộc sống mới ở khu tái định cư
    Bản Ón, xã Tam Chung, huyện Mường Lát (Thanh Hóa) có 100% là đồng bào dân tộc Mông sinh sống. Đa số người dân trong bản thuộc diện hộ nghèo và cận nghèo. Phần lớn các hộ dân dựng nhà bên những sườn núi cheo leo, nên luôn phải đối mặt với nguy cơ lũ quét, sạt lở rất cao vào mùa mưa lũ. Nhưng giờ đây người dân trong bản không còn phải nơm nớp lo sợ, bởi khu tái định cư do Nhà nước đầu tư khang trang, đồng bào đã và đang bắt tay vào xây dựng cuộc sống mới.
  • Bắc Quang - Hà Giang: Nỗ lực giúp dân xóa nghèo bền vững
    Thực hiện Nghị quyết số 05-NQ/TU, ngày 1/11/2020 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Hà Giang về Chương trình cải tạo vườn tạp, phát triển kinh tế vườn hộ để tạo sinh kế cho người dân, giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021 - 2025, huyện Bắc Quang đã chủ động tuyên truyền, xây dựng kế hoạch và triển khai hiệu quả giúp hàng chục hộ dân xóa nghèo và vươn lên khá giả.
  • Sắc xanh xứ đạo xã Phú Sơn
    Bà con giáo xứ tại xã Phú Sơn, thị xã Nghi Sơn (Thanh Hóa) luôn nêu cao phương châm sống “tốt đời đẹp đạo”, tự giác nâng cao ý thức bảo vệ môi trường, giữ gìn vệ sinh đường làng, ngõ xóm.
  • Theo chân cán bộ kiểm lâm “cắm bản”
    (TN&MT) - Dọc theo những con đường đến với xã vùng biên Phiêng Pằn của huyện Mai Sơn (Sơn La), trên những quả đồi bạc màu, hoang hóa ngày nào, đang xanh lên màu xanh của những cánh rừng. Trong thành công ấy, có bóng dáng, sự nỗ lực quên mình của người kiểm lâm viên địa bàn ngày ngày “bám đất, bám rừng”.
  • Cây dược liệu- Cây xóa nghèo bền vững ở các huyện miền Núi
    Cùng với chính sách xóa đói, giảm nghèo của Chính phủ, trong những năm gần đây, Tỉnh ủy, UBND tỉnh Thanh Hóa đã đưa ra nhiều chương trình xóa đói, giảm nghèo cho bà con các huyện miền Núi. Trong những chương trình đó thì phát triển nguồn lực tại chỗ là một trong những thế mạnh của người dân như: Phát triển và bảo vệ rừng, trồng cây lâm nghiệp, nông nghiệp, trồng dược liệu… Nhờ đó, người dân vùng sâu, vùng xa Xứ Thanh đã thoát nghèo bền vững.
  • Lễ cầu mưa của dân tộc Hà Nhì
    (TN&MT) - Hàng năm từ 15/5 - 15/7 (âm lịch) người Hà Nhì ở Mường Nhé (Điện Biên) lại chuẩn bị cho Tết mùa mưa (Dế khù chà – theo tiếng Hà Nhì). Đây là dịp để người Hà Nhì cầu mong cho mưa thuận gió hòa, vụ mùa tốt tươi, con cháu họ được sum vầy hạnh phúc. Ngoài ý nghĩa tín ngưỡng tâm linh thì đó còn là thời điểm họ cảm tạ thần mưa đã dâng nước suối đủ tưới mát cây cối, ruộng đồng, không làm lũ ống, lũ quét... Cảm tạ đất trời đã che chở họ trong cả một năm qua.
  • Người Mạ giữ rừng vì giá trị truyền thống
    (TN&MT) - Nghề giữ rừng tại Vườn Quốc gia Tà Đùng (xã Đắk Som, huyện Đắk G’long) đã mang lại nguồn thu nhập cho các hộ đồng bào dân tộc thiểu số người Mạ từ khoản kinh phí từ dịch vụ môi trường rừng. Với đại đa số các hộ dân tại đây, giữ rừng không chỉ mang lại thu nhập mà còn là trách nhiệm với tổ tiên và các thế hệ mai sau bởi nghề rừng được xem như một nghề truyền thống.
  • Đồng bào Cơ Tu giữ rừng
    (TN&MT) - Ngàn đời nay, đồng bào Cơ Tu ở huyện Tây Giang (Quảng Nam) xem rừng như người Mẹ vĩ đại che chở mang lại sự sống cho dân làng. Chính từ sự ngưỡng vọng, tôn vinh, trân trọng ấy nên người dân Tây Giang luôn yêu quý, bảo vệ rừng.
  • Chính sách cấp nước sạch cho bà con dân tộc thiểu số
    (TN&MT) - Hiện nay, nhiều thôn bản vùng đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) và miền núi, điều kiện cơ sở hạ tầng còn rất khó khăn và thiếu thốn, đặc biệt là thiếu nguồn nước sạch cho sinh hoạt của người dân. Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021-2025 đã đưa vấn đề hỗ trợ nước sinh hoạt bao gồm hỗ trợ nước sinh hoạt phân tán và hỗ trợ nước sinh hoạt tập trung là một trong những trọng điểm.
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO