(TN&MT) - Đầu xuân, chúng tôi rủ nhau đi về hướng núi. Sau chuyến xe đêm đường dài rồi lên xe ca tuyến huyện, đến điểm hẹn, con trai và cháu rể nhà Thào A Vạng đã xe máy chờ sẵn, đón đoàn từ “cây gạo cô đơn” đầu bản Phày để lên Nậm Nghiệp (xã Ngọc Chiến, huyện Mường La, tỉnh Sơn La).
Chuyến này, mọi người quyết mục sở thị “thủ phủ táo mèo”, nếu dư dả thời gian, sẽ kết hợp phiêu lưu thám hiểm trên con đường leo đỉnh Tà Chì Nhù (nếu đi từ phía Yên Bái) ngắm hoa đỗ quyên đỏ rực.
Chàng thanh niên đồng bào Mông chở tôi, tự hào nói át cả tiếng gió: “Chỉ đôi ba tháng nữa, đường làm xong thì đẹp lắm! Bản em cao tít trên kia”. Hướng ấy, mây trắng ngút tầm mắt.
Nậm Nghiệp có độ cao gần 2.500m so với mực nước biển, nằm trọn vẹn trên triền phía Tây của dãy Hoàng Liên Sơn. Nếu phía Tà Chì Nhù rừng núi đỏ rực màu hoa đỗ quyên, thi thoảng điểm xuyết những vạt hồng mơ màng của hoa chi pâu thì mạn bên này trùng trùng bao nhiêu gốc táo mèo trên 5 năm tuổi, hoa trắng xóa như đắp cho những vạt rừng, vạt đồi bao nhiêu tấm chăn chỉ thuần ruột bông gòn xốp tơi, thuần khiết.
Khác với Sa Pa, nằm ở sườn trước của dãy Hoàng Liên Sơn, thường phải chịu những đợt không khí ẩm lạnh giá buốt từ phía Bắc, Đông Bắc tràn về, Nậm Nghiệp có hình dáng tựa đứa con được núi cha, núi mẹ che chở một cách vững chãi, bình yên. Mùa đông, bản không quá lạnh, mùa hè thì mát mẻ và đặc biệt các luồng gió nóng từ Lào kéo sang không thể nào vượt qua được những dãy núi trùng trùng điệp điệp kéo dài từ Điện Biên, tới Sơn La, qua Mường La để mà phủ lên Nậm Nghiệp. Ấy là lý do ngay giữa mùa hè, Mường La có thể thật oi bức, khó chịu nhưng vào tới đây thì mọi thứ trở nên trong veo, nhẹ nhõm lạ thường.
Những chiếc xe máy được dân bản lựa chọn kiểu dáng, thiết kế hợp với đường rừng, khỏe như chiến mã cũng đến lúc ù ì kháng cự con dốc dựng đứng - khúc ngoặt dẫn lên nhà Thào A Vạng. Xe thốc lên, như bay, rồi chầm chậm lao xuống khoảng sân đất, khách xa tai còn ù đặc, đầu óc lâng lâng, đã nghe tiếng chào: “Mọi người lên sớm thế à?”. Thật ngạc nhiên, trước mắt chúng tôi là Tráng A Chu - người đàn ông dân tộc Mông khỏe khoắn tươi vui nhà ở mãi Mộc Châu. Tráng A Chu cũng là chủ một homestay có tiếng. Đoán ý khách xa, anh giải thích: “Hoa nở nhiều thì mình lên mình ngắm thôi”. Gắn bó với người Mông từ nhiều đời nay, táo mèo không chỉ là cây xóa đói giảm nghèo mà mỗi mùa xuân hoa nở còn thu hút khách xa đến vãn cảnh.
Trong bình minh mùa xuân, bản nhỏ hiện lên như một bức tranh sống động. Từng bông hoa dền phất phơ dưới ánh nắng chan hòa rót mật, kéo từng vạt từ khoảnh rừng này đến khoảnh rừng khác. Từ mỏm núi nhà A Vạng dõi mắt xa xa, lúp xúp những nếp nhà sàn thấp của người Mông ẩn mình dưới rừng táo mèo như trò ú tim đầy kỳ thú. Nậm Nghiệp từng chênh vênh, thưa thớt và hoang sơ. Nậm Nghiệp cũng có những khi lạnh giá, se sắt và khô khát. Nhưng, bây giờ, ở chính nơi này, những điều đó lại làm ửng hơn những quả táo mèo căng nhức như má hồng thiếu nữ.
Bà con rủ rỉ kể chuyện, cuối đông, cây trút sạch lá để xuân đến đơm hoa. Nếu còn lá, cây không đủ sức đơm hoa ở thời tiết lạnh khô cùng độ cao hơn hai ngàn mét được. Khi bung nở, năm cánh hoa màu trắng sữa với nhụy vàng dần ngả sang màu nâu đất tỏa hương ngây ngất, đê mê, ứa mật. Táo mèo thường rủ nhau nở đồng loạt, sắc trắng loang vào nắng sớm, mây chiều...
Được mệnh danh là thủ phủ của táo mèo cũng chẳng sai, toàn xã Ngọc Chiến có tổng diện tích gần 2.600ha, trong đó gần 800ha là cây cổ thụ với tuổi đời vài trăm năm, riêng Nậm Nghiệp diện tích đó đã chiếm hơn 1.500ha. Chẳng thế mà tổ chức Kỷ lục Việt Nam đã trao bằng công nhận Ngọc Chiến là “xã có rừng hoa táo mèo lớn nhất Việt Nam”.
Bữa cơm mời khách nhà A Vạng có món cá suối nướng, trứng vịt luộc, rau cải mèo xào thịt mỡ gác bếp. Khách vừa cầm đũa, chủ nhà đã hớt hải xua tay: “Thiếu rồi, thiếu đặc sản rồi!”, miệng nói, chân chạy lên nhà trên, A Vạng khệ nệ mang những bình rượu táo mèo nhà ngâm mời khách. Rượu táo mèo màu hổ phách non, trong veo như ánh nắng rẻo cao.
Giữa mùa xuân, lưu trú nhà A Vạng, mọi sinh hoạt của chúng tôi thường quây quần dưới rừng hoa. Sáng nghe chim hót, uống trà hoa, tựa gốc cổ thụ. Chiều dạo quanh bản, đi đâu cũng không qua mùa hoa, lúc nào cũng rù rì bầy ong tức cánh đi mật. Hương thơm ngây ngất đến say sưa, gợi về những cánh hoa đang ửng dần, càng héo càng thơm và vị ngọt ngào pha nhân nhẩn đắng trong tận sâu vòm nhụy. Chiều dần buông dưới thảm hoa trắng muốt. Vầng mặt trời như lòng đỏ trứng gà dịu dần, từ từ chìm xuống biển mây. Như thể trời đã trải sẵn tấm chăn vô cùng nhẹ nhõm và êm ấm. Chúng tôi men theo suối và phóng tầm mắt thật xa về những rặng núi trước mặt, phía bên phải là bản làng thấp thoáng. Những con đường mòn ven sườn đồi táo cứ thế dẫn ta đi mà có khi ngước lại, đã thấy cảnh và người hòa trong sương, trong mây. Chỉ còn tiếng chim kêu, tiếng suối chảy và ai đó bắc loa tay gọi nhau về ăn cơm.
Khắc khoải nhất là những bữa tối dưới gốc cây hoa nở đến kiệt mình, đồ ăn thức uống bày trên bàn gỗ. Sợ khách chưa quen khí hậu, bị nhiễm hơi lạnh, vợ chồng chủ nhà kéo ra một cái bếp hình thuyền và đốt củi bập bùng. Khách mời cùng ăn cơm, A Vạng ngại ngần chỉ đến chúc ly rượu rồi lại quay về ngồi bên cạnh bếp, đun củi cùng vợ, ánh mắt lấp lánh niềm vui. “Khách vui là mình vui. Khách ấm là mình ấm”, mắt người đàn ông lấp loáng sương. Đêm khuya, ngủ trong nhà gỗ, giấc mơ vẫn chập chờn tiếng gió hú, “Cũng phải thôi, nhà A Vạng ở đỉnh gió, cái gì cũng hào phóng đến cực độ”, “Có lẽ thế nên sắc hoa mới đẹp một cách lạ lùng…”
Khi mùa hoa mở rộng vòng tay, già trẻ lớn bé bản Mông đều xúng xính quần áo truyền thống với những kiềng, những tràng xu bạc kêu xủng xoẻng, rung reng theo từng bước đi, điệu nhảy. Phụ nữ chơi đẩy gậy, ném pao; đàn ông đá bóng, tu lu... ai vui thì cũng chơi tất cả các môn. Cái sân chung nằm ở khoanh đất đẹp nhất, giữa bát ngát núi rừng, hễ gió nổi lên thì ôi thôi, cả trăm người cùng bị cuốn vào cuộc rong chơi trong cơn gió bụi.
Bản thường ăn Tết, chơi Tết đến hết rằm tháng Giêng. Kháng A Lệnh - một trong những người đầu tiên làm dịch vụ lưu trú cho khách du lịch - Tết nào cũng diện quần áo mới, băng dốc vượt đèo mấy chục cây số đường núi sang xã Xà Hồ bên Trạm Tấu thăm bố vợ. Những người Mông cấp tiến như Thào A Vạng, Kháng A Lệnh nắm bắt cái mới rất nhanh. Mỗi nhà đã có vài ba căn nhà làm dịch vụ lưu trú cho khách và hiện đang xây dựng thêm. Họ cũng vận động bà con làm mô hình này, mở thêm các đội hướng dẫn viên bản địa, xe ôm, văn nghệ, ẩm thực… và chăn nuôi lợn, gà, trồng rau để phục vụ khách tốt hơn. Bà con cũng ý thức rõ phải giữ cảnh quan bản làng sạch đẹp, bảo vệ môi trường nên lập ra các tổ vệ sinh dọn dẹp đường đi lối lại trong bản, trồng cây trồng hoa. Bây giờ, các thiếu nữ Mông đã thoăn thoắt phục vụ, pha chế đồ uống, hỏi han khách một cách tự tin, niềm nở; những người phụ nữ từng mặc cảm vì không biết tiếng Kinh đã mạnh dạn hơn, sẵn sàng giao lưu cùng du khách.
Mùa xuân trước, khi rời xa Nậm Nghiệp, có những giây phút lòng tôi đã nhói lên. Đó là một sáng tinh mơ, Thào A Vạng quay cảnh mưa đá đang trút xả, vần vũ. Cảnh tiêu điều, xác xơ diễn ra chỉ sau một vài tuần chúng tôi tạm biệt bản nhỏ. Trong câu chuyện chập chờn vì sóng điện thoại, vì thời tiết, có tiếc nuối, có xót xa… chẳng ai đoán biết được mùa hoa sắp tới thế nào, táo mèo má đào có còn trĩu cành và theo chân người tỏa đi khắp hướng… nhưng rồi câu hát của Thào A Vạng đã vang lên, như son sắt, mộc mạc mãi một tình yêu, một niềm tin vào đất, vào người.