Kết quả điều tra, đánh giá nguồn tài nguyên nước dưới đất tại đô thị Bạc Liêu

Hùng Phạm | 12/04/2022, 15:46

Nước dưới đất tại đô thị Bạc Liêu hiện là nguồn cấp chủ yếu cho ăn uống, sinh hoạt và sản xuất. Do đó, bảo vệ nguồn tài nguyên này là vấn đề cấp thiết để phát triển bền vững.

Nhằm đánh giá tài nguyên nước dưới đất của đô thi Bạc Liêu, trong năm 2021, Liên đoàn Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước miền Nam (Trung tâm Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước quốc gia) đã thực hiện đề án “Bảo vệ nước dưới đất ở đô thị Bạc Liêu”. Trong đó, đã tiến hành hàng loạt các hoạt động nghiên cứu gồm điều tra khảo sát thực địa, khảo sát địa vật lý (đo sâu điện đối xứng và đo carota lỗ khoan), khoan thăm dò địa chất thủy văn, bơm nước thí nghiệm kết hợp đổ chất chỉ thị xác định thông số địa chất thủy văn của các tầng chứa nước, phân tích 149 mẫu nước dưới đất, 120 mẫu đất, phân tích ảnh Radar giao thoa theo thời gian để xác định các khu vực sụt lún mặt đất, xây dựng mô hình dòng chảy nước dưới đất, mô hình dự báo xâm nhập mặn…

Kết quả đã đưa ra số liệu cụ thể về cấu trúc địa chất thủy văn, sự phân bố các tầng chứa nước, số lượng, chất lượng nước dưới đất các tầng chứa nước, hiện trạng khai thác sử dụng và các vấn đề về sụt lún mặt đất, xâm nhập mặn, cạn kiệt nguồn nước dưới đất, khả năng tự bảo vệ của các tầng chứa nước và các nguyên nhân dẫn đến việc suy thoái, cạn kiệt.

bl1.jpg

Khoan thăm dò địa chất thủy văn tại xã Hiệp Thành, TP. Bạc Liêu (Điểm lỗ khoan BL4D)

Làm sáng tỏ cấu trúc địa chất thủy văn

Kết quả nghiên cứu cho thấy, vùng đô thị Bạc Liêu có bảy tầng chứa nước lỗ hổng và bảy thành tạo địa chất rất nghèo nước. Các tầng chứa nước theo thứ tự từ trên xuống dưới gồm: Tầng chứa nước lỗ hổng Holocen (qh); Tầng chứa nước lỗ hổng Pleistocen trên (qp3); Tầng chứa nước lỗ hổng Pleistocen giữa - trên (qp2-3); Tầng chứa nước lỗ hổng Pleistocen dưới (qp1); Tầng chứa nước lỗ hổng Pliocen giữa (n22); Tầng chứa nước lỗ hổng Pliocen dưới (n21); Tầng chứa nước lỗ hổng Miocen trên (n13).

Hình 1 – Sơ đồ cấu trúc địa chất thủy văn đô thị Bạc Liêu

Xác định được tiềm năng, trữ lượng có thể khai thác của các tầng chứa nước

Trong bảy tầng chứa nước của đô thị Bạc Liêu, tầng chứa nước qh và qp3 nằm trên cùng, có diện phân bố và chiều dày nhỏ, nghèo nước, phần lớn diện tích đều chứa nước mặn. Tầng chứa nước n21 và n13 nằm sâu, rất hạn chế về tài liệu nghiên cứu và hầu như không có công trình khai thác. Ba tầng chứa nước còn lại là qp2-3, qp1 và n22 là các tầng chứa nước có mức độ chứa nước từ trung bình đến giàu, phần lớn là nước nhạt, hiện nay đang được khai thác nhiều nhất, theo mục tiêu của đề án. Đây chính là ba tầng chứa nước chính cần phải bảo vệ của đô thị.

bl3.jpg
Khoan thăm dò địa chất tại xã Vĩnh Trạch, TP Bạc Liêu

Với sự hỗ trợ của mô hình dòng chảy nước dưới đất, đã tính toán được tổng tiềm năng tài nguyên nước dưới nhạt đất toàn đô thị là 396.290 m3/ngày. Trong đó, phần nước nhạt là 253.873 m3/ngày, phần nước mặn là 193.175 m3/ngày. Trữ lượng có thể khai thác phần nước nhạt là 120.510 m3/ngày.

Hình 2 - Sơ đồ phân vùng khả năng khai thác nước dưới đất tầng qp2-3

Hình 3 - Biểu đồ trữ lượng có thể khai thác theo tầng chứa nước

Đánh giá được chất lượng các tầng chứa nước cần bảo vệ

Chất lượng nước dưới đất được đánh giá trên cơ sở 117 mẫu nước và chuỗi số liệu quan trắc trong 10 năm của 07 lỗ khoan thuộc trạm quan trắc quốc gia Q597. Kết quả đánh giá cho thấy so với Quy chuẩn nước ngầm QCVN 09-MT:2015/BTNMT, nước nhạt trong các tầng chứa nước có chất lượng tốt, đáp ứng nhu cầu ăn uống, sinh hoạt. Dấu hiệu ô nhiễm chỉ ở dạng điểm, một số chỉ tiêu vượt quy chuẩn dạng điểm chủ yếu là các hợp chất Nitro, sắt, độ cứng, …

Trong ba tầng chứa nước cần bảo vệ, chỉ có tầng n22 có phân bố nước mặn (tổng khoáng hóa lớn hơn 1,5 g/L). Kết quả nghiên cứu chỉ ra vùng nước nhạt trong tầng n22 mở rộng hơn so với các nghiên cứu trước đây, từ 47 km2 lên 112 km2, tăng 65 km2. Đây là phát hiện mới, là tiền đề để đề xuất phương án khai thác nước dưới đất nhằm giảm thiểu áp lực cho các tầng qp2-3 và qp1 đang được khai thác hiện nay.

Hình 4 - Hiện trạng nhiễm mặn nước dưới đất các tầng chứa nước

Hiện trạng khai thác, sử dụng nước dưới đất

Tổng số công trình khai thác nước dưới đất là 8.602 công trình với tổng lưu lượng khai thác là 40.256,0 m3/ngày, có 72 công trình khai thác có quy mô lưu lượng ≥10 m3/ngày với lưu lượng khai thác 30.288,0 m3/ngày và 8.526 công trình khai thác có quy mô lưu lượng <10 m3/ngày với lưu lượng khai thác 9.968,0 m3/ngày.

Hình 5 - Biểu đồ tỷ lệ khai thác nước dưới đất theo tầng chứa nước

Nước dưới đất được khai thác trong 3 tầng chứa nước (qp2-3, qp1, n22) và không khai thác trong 4 tầng chứa nước (qh, qp3 và n21, n13). Lượng nước dưới đất được khai thác chủ yếu trong tầng chứa nước qp2-3 với 21.687,0 m3/ngày, chiếm 53,87% tổng lượng khai thác. Tiếp theo đến tầng chứa nước qp1 với 16.804,0 m3/ngày (chiếm 41,74% tổng lượng khai thác), tầng chứa nước n22 với 1.765,0 m3/ngày (chiếm 4,38% tổng lượng khai thác).

So với trữ lượng có thể khai thác nước dưới đất của các tầng chứa nước (120.510 m3/ngày), thì lượng khai thác hiện tại đang chiếm 33,4%. Trữ lượng còn có thể khai thác thêm toàn vùng đô thị khoảng 80.254 m3/ngày. Tuy nhiên, việc khai thác phân bố không đề theo không gian, chỉ tập trung chủ yếu tại 2 tầng chứa nước và khu vực nội thành TP. Bạc Liêu do đó dẫn đến những nguy cơ suy thoái cạn kiệt và xâm nhập mặn vào các tầng chứa nước.

Kết quả tính toán nhu cầu nước đến năm 2030 (trừ lượng nước cho cây trồng hàng năm) toàn đô thị Bạc Liêu là 64.043 m3/ngày. So với nhu cầu sử dụng nước, thì nước dưới đất có thể đáp ứng đủ nhu cầu.

Đề án đã tổng rà soát, cập nhật toàn bộ các tài liệu điều tra cơ bản về tài nguyên nước dưới đất trên địa bàn nghiên cứu đô thị Bạc Liêu từ trước đến nay, tiến hành điều tra, đánh giá chi tiết về tài nguyên nước dưới đất và các vấn đề cần bảo vệ nguồn tài nguyên này. Vì vậy, các số liệu đánh giá về hiện trạng tài nguyên nước dưới đất có độ tin cậy cao. Đây là cơ sở đề đề ra các giải pháp kỹ thuật để bảo vệ nước dưới đất, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng nước, phát triển bền vững tài nguyên nước đồng thời phục vụ hữu ích cho mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đô thị.

Bài liên quan
  • Bảo vệ nước dưới đất tại đô thị Cà Mau
    (TN&MT) - Kết quả Điều tra, đánh giá tài nguyên nước dưới đất tại đô thị Cà Mau do Liên đoàn Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước miền Nam (Trung tâm Quy hoạch và Điều tra Tài nguyên nước quốc gia) triển khai thực hiện đã đưa ra các số liệu, thông tin cụ thể về điều kiện tồn tại, sự phân bố, số lượng, chất lượng của các tầng chứa nước, khả năng bảo vệ cũng như các nguyên nhân dẫn đến việc suy thoái, cạn kiệt.

(0) Bình luận
Nổi bật
ĐBQH Lý Thị Lan đề nghị sớm triển khai chính sách đối với vùng đồng bào DTTS và miền núi
(TN&MT) - Theo Đại biểu Lý Thị Lan - Đoàn ĐBQH tỉnh Hà Giang, việc chậm, chưa ban hành các quy định pháp luật tất yếu dẫn tới lãng phí cơ hội thụ hưởng, tiếp cận chính sách của người dân vùng đồng bào DTTS và miền núi.
Đừng bỏ lỡ
  • Mường Tè (Lai Châu): Giải pháp đưa nước sạch về với đồng bào dân tộc thiểu số
    (TN&MT) - Mường Tè là một trong những huyện vùng cao có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) sinh sống ở Lai Châu. Trước đây, người dân luôn phải sống trong cảnh thiếu nước sinh hoạt. Từ khi có các chương trình mục tiêu quốc gia, chương trình 30a, 135, nông thôn mới… của Nhà nước, đồng bào DTTS đã có nước sạch, hợp vệ sinh sử dụng trong sinh hoạt mỗi ngày. An ninh nguồn nước được đảm bảo.
  • Mở rộng mạng lưới nước sạch cho người dân vùng nông thôn Yên Bái
    (TN&MT) - Trong thời gian qua, thông qua các chương trình và lồng ghép nhiều nguồn vốn khác nhau, tỉnh Yên Bái đã và đang tích cực đưa nước sạch tới người dân vùng nông thôn, trong đó có sử dụng hiệu quả nguồn vốn từ Ngân hàng chính sách xã hội.
  • Thể chế quan điểm tuần hoàn tài nguyên nước
    (TN&MT) - Trong bối cảnh hướng đến nền kinh tế tuần hoàn trên thế giới, việc tuần hoàn tài nguyên nước là một yêu cầu cần thiết. Các quốc gia cần xây dựng được môi trường pháp lý cho phép thực hiện các giải pháp kinh tế nước tuần hoàn, đưa ra các chính sách khuyến khích và thúc đẩy thích hợp, nâng cao nhận thức và tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng các công nghệ tiết kiệm nước, tuần hoàn, tái sử dụng nước. Dự thảo Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) đã đặt ra vấn đề này.
  • Đắk Nông: Đảm bảo nguồn nước, giúp người dân phát triển nông nghiệp
    Đắk Nông là một trong năm tỉnh thuộc Tây Nguyên được thiên nhiên ưu đãi với khí hậu thổ nhưỡng rất phù hợp để phát triển nông nghiệp. Trong đó, vấn đề an ninh nguồn nước luôn được tỉnh Đắk Nông quan tâm, chú trọng chỉ đạo đầu tư xây dựng hệ thống kênh mương thủy lợi, giúp người dân có điều kiện tốt nhất phát triển sản xuất nông nghiệp, vươn lên thoát nghèo.
  • Phiên họp thứ 55 Ủy hội sông Mê Công:Thúc triển khai thực hiện Tuyên bố chung Viêng Chăn
    (TN&MT) - Ngày 18/5, tại Đà Nẵng đã diễn ra Phiên họp lần thứ 55 của Ủy ban Liên hợp Ủy hội sông Mê Công quốc tế. Phiên họp nhằm thúc đẩy triển khai việc thực hiện Tuyên bố chung của Hội nghị cấp cao lần thứ 4 của Ủy hội sông Mê Công quốc tế (Tuyên bố chung Viêng Chăn).
  • Bạc Liêu: Quản lý, sử dụng, bảo vệ nguồn nước sạch cho mục tiêu phát triển bền vững
    Xác định tầm quan trọng của tài nguyên nước, trong những năm qua tỉnh Bạc Liêu đã triển khai nhiều giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nước, phục vụ đời sống nhân dân và mục tiêu giảm nghèo đa chiều, đảm bảo nước sạch cho mọi tầng lớp nhân dân. Để hiểu hơn về vấn đề này, Phóng viên Báo TN&MT đã có cuộc trao đổi với ông Nguyễn Bình Thuận, Giám đốc Sở TN&MT tỉnh Bạc Liêu.
  • Sơn La: Lấy ý kiến dự thảo Luật Tài nguyên nước (sửa đổi)
    (TN&MT) - Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Sơn La vừa tổ chức Hội nghị tham gia ý kiến vào dự án Luật Tài nguyên nước (sửa đổi). Bà Hoàng Thị Đôi - Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, Ủy viên Hội đồng Dân tộc của Quốc hội, Phó trưởng đoàn Đại biểu Quốc hội (ĐBQH) tỉnh chủ trì Hội nghị.
  • Vĩnh Phúc lấy ý kiến đóng góp vào Dự thảo Luật Tài nguyên nước
    (TN&MT) - Sáng 17/5, Đoàn ĐBQH tỉnh Vĩnh Phúc tổ chức hội nghị lấy ý kiến vào Dự thảo Luật Tài nguyên nước (sửa đổi). Ông Nguyễn Văn Mạnh - Phó Trưởng đoàn ĐBQH tỉnh Vĩnh Phúc chủ trì Hội nghị.
  • Quảng Ngãi: Tìm giải pháp cấp nước ngọt ổn định cho đảo tiền tiêu Lý Sơn
    Nguồn nước ngầm trên huyện đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi) đang dần cạn kiệt khiến đời sống sinh hoạt và sản xuất của bà con trở nên khó khăn. Các cơ quan chức năng của tỉnh cùng chính quyền địa phương khẩn trương tìm phương án tối ưu trong việc cấp nước ngọt ổn định, lâu dài cho đảo.
  • Thừa Thiên – Huế: Đưa vào vận hành hồ chứa trong tình huống khẩn cấp
    (TN&MT) - Dự án vận hành hồ chứa nhằm bảo vệ an toàn di tích lịch sử Cố đô Huế và hạn chế tình trạng lũ lụt, giảm thiểu thiệt hại cho lưu vực sông Hương.
  • Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Yên Bái lấy ý kiến tham gia vào Dự án Luật Đất đai và Luật Tài nguyên nước (sửa đổi)
    Sáng 12/5, tại Sở TN&MT, Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Yên Bái đã tổ chức Hội nghị lấy ý kiến tham gia vào Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) và Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) trình kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XV. Ông Đỗ Đức Duy – Bí thư Tỉnh uỷ, Trưởng Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Yên Bái chủ trì hội nghị.
  • Yên Bái: Nỗ lực đưa nước sạch tới người dân vùng nông thôn
    Vượt qua những khó khăn về địa hình, những năm qua tỉnh Yên Bái đã nỗ lực đưa nước hợp vệ sinh tới nhiều vùng nông thôn, đặc biệt là những địa phương có đồng bào dân tộc sinh sống.
  • Yên Bái: Gần 300 công trình cấp nước tập trung phát huy được hiệu quả
    (TN&MT) – Đến hết năm 2022, người dân khu vực nông thôn trên địa bàn tỉnh Yên Bái có khoảng trên 600.000 người được tiếp cận và sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh, đạt tỷ lệ 93%. Hiện toàn tỉnh có 358 công trình cấp nước tập trung, với 254 công trình đang phát huy tốt hiệu quả với tổng mức đầu tư trên 400 tỷ đồng.
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO