Dự án “Điều tra, đánh giá xác định vùng cấm, vùng hạn chế khai thác nước dưới đất từ Đà Nẵng đến Bình Thuận”

Xuân Phương | 13/04/2020, 18:36

(TN&MT) - Liên đoàn Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước miền Trung vừa hoàn thiện Dự án “Điều tra, đánh giá xác định vùng cấm, vùng hạn chế khai thác nước dưới đất trong các tầng chứa nước trầm tích Đệ tứ và Neogen từ Đà Nẵng đến Bình Thuận”.

Tổng Giám đốc Trung tâm Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước quốc gia Tống Ngọc Thanh chủ trì buổi báo cáo Dự án “Điều tra, đánh giá xác định vùng cấm, vùng hạn chế khai thác nước dưới đất từ Đà Nẵng đến Bình Thuận” của Liên đoàn Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước miền Trung

Dự án được nhóm tác giả thuộc Liên đoàn Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước miền Trung, do CN. Nguyễn Trung Phát chủ trì triển khai thực hiện từ tháng 1/2010.

Giải quyết bài toán thiếu nước do phát triển kinh tế - xã hội

Liên đoàn Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước miền Trung cho biết: Vùng đồng bằng ven biển các tỉnh, thành phố khu vực duyên hải Nam Trung Bộ từ Đà Nẵng đến Bình Thuận là nơi tập trung các thành phố tỉnh lỵ, thị xã, thị trấn,  khu và cụm công nghiệp. Đây cũng là nơi có các hoạt động KT-XH phát triển mạnh mẽ. Chính những đặc điểm trên đã và đang gia tăng nhu cầu khai thác sử dụng nước dưới đất, lượng nước được khai thác ngày càng tăng, kéo theo việc xả nước thải vào nguồn nước cũng tăng theo là những tiềm ẩn của nguy cơ gây cạn kiệt, ô nhiễm các nguồn nước.

Triển khai thi công Dự án “Điều tra, đánh giá xác định vùng cấm, vùng hạn chế khai thác nước dưới đất từ Đà Nẵng đến Bình Thuận” 

Bên cạnh nguồn nước mặt trên các sông suối và trong hồ chứa, nước dưới đất trong các tầng chứa nước trong trầm tích Đệ tứ và Neogen là đối tượng để khai thác phục vụ cho hoạt động kinh tế, xã hội của vùng. Từ dữ liệu của hệ thống quan trắc tài nguyên nước thuộc mạng quan trắc quốc gia và địa phương trong khu vực cho thấy, nước dưới đất trong tầng chứa nước này đang có dấu hiệu suy thoái, cạn kiệt.

Để cung cấp cơ sở khoa học cho việc bảo vệ, quản lý và sử dụng nước dưới đất trong các tầng chứa nước trầm tích Đệ tứ và Neogen, phục vụ cho phát triển kinh tế, xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng, Dự án “Điều tra, đánh giá xác định vùng cấm, vùng hạn chế khai thác nước dưới đất trong các tầng chứa nước trầm tích Đệ tứ và Neogen từ Đà Nẵng đến Bình Thuận” do Liên đoàn Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước miền Trung thành lập đã được Trung tâm Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước quốc gia theo ủy quyền của Bộ Tài nguyên và Môi trường phê duyệt tại Quyết định số 09/QĐ-QHTNN ngày 21/01/2010. Trong thời gian thực hiện, Dự án được Bộ Tài nguyên và Môi trường phê duyệt điều chỉnh dự toán kinh phí và thời gian thực hiện tại quyết định số 2700/QĐ-BTNMT ngày 27/11/2014 và quyết định số 1724/QĐ-BTNMT ngày 29/7/2016. Theo đó, thời gian thực hiện Dự án bắt đầu từ năm 2011, lập báo cáo tổng kết và nộp lưu trữ vào năm 2019.

Triển khai thi công Dự án “Điều tra, đánh giá xác định vùng cấm, vùng hạn chế khai thác nước dưới đất từ Đà Nẵng đến Bình Thuận” 

Mục tiêu của Dự án là xác định vùng hạn chế và đề xuất các biện pháp hạn chế khai thác nước dưới đất trong các tầng chứa nước trầm tích Đệ tứ và Neogen từ Đà Nẵng đến Bình Thuận.

Để đạt mục tiêu trên, nhiệm vụ của Dự án là điều tra, đánh giá để xác định các vùng hạn chế khai thác nước dưới đất theo các tiêu chí và căn cứ được quy định trong Nghị định số 167/NĐ-CP ngày 26 tháng 12 năm 2018 của Thủ tướng Chính phủ quy định về việc hạn chế khai thác nước dưới đất; lập được bản đồ phân vùng hạn chế khai thác nước dưới đất trong phạm vi Dự án;

Ngoài ra, Dự án còn điều tra và thu thập thông tin về các nguồn thải, hiện trạng cấp nước tập trung ở các khu đô thị, khu dân cư để phục vụ việc khoanh vùng hạn chế khai thác NDĐ.

Hiện trạng các Lỗ khoan trong quá trình triển khai Dự án

Xác định được cấu trúc địa chất thủy văn và tiềm năng TNN trong vùng

Dự án đã hoàn thành toàn bộ nội dung, khối lượng thực hiện các công việc đã được phê duyệt và đạt được mục tiêu, nhiệm vụ đã đặt ra. Các dạng công tác điều tra, đánh giá hiện trạng, ô nhiễm, nhiễm mặn nước dưới đất, đồng thời đề xuất các giải pháp phòng ngừa, hạn chế giảm thiểu tình trạng cạn kiệt, ô nhiễm và nhiễm mặn, khoanh định vùng hạn chế khai thác nước dưới đất cho 7 vùng điều tra.

Ông Nguyễn Trung Phát, Chủ nhiệm Dự án cho biết: Kết quả của Dự án đã làm sáng tỏ được cấu trúc ĐCTV, điều kiện tồn tại, sự phân bố của các TCN trầm tích Đệ tứ và Neogen trong vùng điều tra. Trong vùng từ Đà Nẵng đến Bình Thuận gồm có các TCN q, qh, qp, n và β(n-qp). Kết quả nghiên cứu đã xác định được diện phân bố, thành phần thạch học, mức độ chứa nước, phân bố mặn nhạt, đặc tính thuỷ lực, diễn biến mực nước và khả năng khai thác các tầng chứa nước trầm tích Đệ tứ và Neogen.

Công tác quan trắc ghi chép số liệu

Theo ông Nguyễn Trung Phát, tổng tiềm năng tài nguyên dự báo nước dưới đất tại 7 vùng điều tra từ Đà Nẵng đến Bình Thuận là 8.248.668m3/ngày, trong đó phần nước nhạt là 6.678.722m3/ngày, phần nước mặn là 1.569.946m3/ngày. Tổng trữ lượng có thể khai thác phần nước nhạt là 2.003.617m3/ngày. Trong đó: Vùng Tam Kỳ - Đà Nẵng - Chu Lai: 280.822m3/ngày; Vùng Bình Sơn - Quảng Ngãi - Mộ Đức: 338.364m3/ngày; Vùng Bồng Sơn - Phù Mỹ - Phù Cát: 487.358m3/ngày; Vùng Sông Cầu - Tuy Hoà - Đông Hoà 219.555m3/ngày; Vùng Vạn Ninh - Nha Trang - Cam Ranh: 221.966m3/ngày; Vùng Ninh Hải - Phan Rang - Ninh Phước: 117.312m3/ngày; Vùng Lương Sơn - Phan Thiết - Hàm Tân:  288.241m3/ngày. Dự án cũng đã đánh giá đầy đủ nhất về hiện trạng chất lượng nguồn nước dưới đất, phân vùng các khu vực nước dưới đất có chất lượng tốt, đảm bảo cấp nước cho ăn uống sinh hoạt và phát triển kinh tế  - xã hội trong vùng.

Bên cạnh đó, kết quả điều tra, khảo sát và thống kê cho thấy tổng lượng nước dưới đất khai thác, sử dụng tại 7 vùng, có tổng lưu lượng khai thác khoảng 406.635,19 m3/ngày đêm. Trong đó, khai thác quy mô tập trung bởi các nhà máy nước, trạm cấp nước tập trung với  công suất lớn khoảng 154.931 m3/ngày đêm; khai thác nước đơn lẻ của các công ty, xí nghiệp khoảng 216.126,6 m3/ngày đêm và khai thác nước nông thôn khoảng 35.577,59 m3/ngày đêm.

Bơm thử nghiệm nguồn nước

Trong vùng nghiên cứu chưa xảy ra hiện tượng cạn kiệt nước dưới đất mà tại đây chỉ xuất hiện những vùng có mực nước động vượt quá mực nước động cho phép, các vùng có mực nước động khai thác vượt quá mực nước động cho phép tại các vùng nghiên cứu như sau: Vùng Tam Kỳ - Đà Nẵng - Chu Lai: 424,4 km2; Vùng Bình Sơn – Quảng Ngãi – Mộ Đức: 515,5 km2; Vùng Bồng Sơn - Phù Mỹ - Phù Cát: 167,7 km2; Vùng Sông Cầu - Tuy Hoà - Đông Hoà 35,3 km2; Vùng Vạn Ninh – Nha Trang – Cam Ranh: 368,3 km2; Vùng Ninh Hải – Phan Rang – Ninh Phước: 96,1 km2 và Vùng Lương Sơn - Phan Thiết - Hàm Tân:  1.114 km2.

Trên cơ sở tiêu chí phân vùng và kết quả phân loại nguy cơ gây ô nhiễm của nguồn thải đến các tầng chứa nước, dự án phân được các vùng nguy cơ ô nhiễm của tầng chứa nước thứ nhất trên địa bàn vùng nghiên cứu trong đó có 100 khoảnh với diện tích 151,23km2 có nguy cơ gây ô nhiễm đến NDĐ cao, có 194 khoảnh, với diện tích 322,49 km2 nguy cơ trung bình và 265 khoảnh, với diện tích 374,21km2 vùng có nguy cơ gây ô nhiễm thấp.

Toàn vùng hiện có 89 công trình khai thác cấp nước tập trung đang hoạt động hiệu quả trong đó có 45 công trình chủ yếu khai thác nước mặt, 40 công trình khai thác nước dưới đất chủ yếu trong các tầng chứa nước Holocen và Pleistocen tại các dải cát ven biển và 4 công trình khai thác kết hợp nguồn nước mặt và nước dưới đất.

Xác định các vùng hạn chế khai thác nước dưới đất

Báo cáo Dự án do ông Nguyễn Trung Phát trình bày cũng đã xác định cơ sở pháp lý, cơ sở khoa học trong Nghị định số 167/NĐ-CP ngày 26 tháng 12 năm 2018 của Thủ tướng Chính phủ quy định về việc hạn chế khai thác nước dưới đất làm căn cứ và tiêu chí để vùng hạn chế khai thác NDĐ trong trầm tích Đệ tứ và neogen từ Đà Nẵng đến Bình Thuận.

Tổng diện tích hạn chế trong vùng điều tra là 5.183,4 km2. Trong đó: Vùng hạn chế khai thác 1 là khu vực liền kề với biên mặn, có hàm lượng tổng chất rắn hòa tan (TDS) từ 1.500 mg/l trở lên: Phân bố dọc theo biên mặn có khoảng cách không quá 1.000m từ biên mặn vào vùng phân bố nước nhạt. Tổng diện tích khoanh định được là 1.317,42 km2.

Khu vực liền kề với các bãi rác/bãi chôn lấp, được khoanh định với bán kính không quá 3.000m, gồm bãi chôn lấp chất thải với tổng diện tích khoanh định được là 358,11 km2.

Khu vực có giếng khai thác nước dưới đất bị ô nhiễm. Phạm vi khoanh định bán kính từ 200m ở một số giếng khai thác có chỉ tiêu vượt GHCP. Tổng diện tích khoanh định là 15,45 km2.

Khu vực có nghĩa trang tập trung hoặc các khu vực có nguy cơ gây ô nhiễm nguồn nước dưới đất. Khu vực này sẽ do Ủy ban nhân dân tỉnh xem xét, quyết định cho nên sẽ không đưa vào khoanh định trong báo cáo này.

Vùng hạn chế khai thác 2: là khu vực xung quanh giếng nằm trong phạm vi vùng có mực nước động vượt quá mực nước cho phép hoặc mực nước dưới đất bị suy giảm liên tục và có nguy cơ bị hạ thấp quá mức. Tổng diện tích khoanh định được là 417,62 km2.

Vùng hạn chế khai thác 3: là vùng đã được đấu nối với hệ thống cấp nước tập trung hoặc chưa được đấu nối nhưng có điểm đấu nối liền kề của hệ thống cấp nước tập trung và sẵn sàng để cung cấp nước sạch. Tổng diện tích khoanh định được là 1.196,92 km2.

Vùng hạn chế khai thác 4: là vùng khu dân cư, khu công nghiệp tập trung (không thuộc Vùng hạn chế 3) cách nguồn nước mặt không quá 1.000m, và nguồn nước mặt có đủ 3 tiêu chí: Có chức năng hoặc được quy hoạch để cấp nước sinh hoạt; Lưu lượng dòng chảy ổn định và > 10m3/s (với sông, suối, kênh, rạch) hoặc dung tích từ >10 triệu m3 trở lên đối với hồ chứa; Có chất lượng nước đảm bảo quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng nước mặt cột A1 trở lên. Tổng diện tích khoanh định được là 394,194 km2.

Vùng hạn chế khai thác hỗn hợp: Trường hợp có các khu vực hạn chế thuộc vùng hạn chế 1, 2, 3 và 4 nêu trên bị chồng lấn nhau, thì phần diện tích chồng lấn được xếp vào Vùng hạn chế hỗn hợp. Tổng diện tích khoanh định được là 682,63 km2.

Kết quả thi công của Dự án đã thành lập các danh mục, bản đồ chất lượng nước dưới đất, hiện trạng khai thác, xác định vùng hạn chế khai thác NDĐ tỷ lệ 1:50.000 các vùng từ Đà Nẵng đến Bình Thuận, đạt được mục tiêu và nhiệm vụ đề ra. Các bản đồ, danh mục vùng hạn chế đã phân chia chi tiết theo đơn vị hành chính, diện tích và vị trí đại diện cho vùng. Bộ tài liệu này là cơ sở để giúp các địa phương quản lý TNN sử dụng dễ dàng hơn. 

Trên cơ sở đó, Liên đoàn Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước miền Trung kiến nghị cần thiết đẩy mạnh công tác điều tra, thăm dò chi tiết ở những khu vực chứa nước tương đối giàu của các tầng chứa nước Holocen, Pleistocen. Tiến hành tổng hợp, đánh giá một cách toàn diện, có hệ thống và chi tiết hơn tài nguyên NDĐ trong vùng nghiên cứu và tiến hành công tác quy hoạch tổng thể tài nguyên nước trong vùng. Khi điều tra cung cấp nước sinh hoạt đối với những khu vực bị ô nhiễm hợp chất Nitơ, các nguyên tố Mangan, Florua, độ cứng cao,… cần chú ý đánh giá chi tiết chất lượng nước đối với các chỉ tiêu này. Đặc biệt là, tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát các nguồn xả thải công nghiệp, sinh hoạt nhằm hạn chế ảnh hưởng đến nguồn nước dưới đất.

Bài liên quan
  • Bộ TN&MT bàn giao cho tỉnh Cà Mau 6 cụm công trình giếng khoan khai thác nước dưới đất
    (TN&MT) - Ngày 24/2/2020, tại Hội trường UBND tỉnh Cà Mau, đại diện lãnh đạo tỉnh Cà Mau đã báo cáo đại điện lãnh đạo Bộ, ngành Trung ương, các chuyên gia, nhà khoa học về thực trạng và những vấn đề đặt ra liên quan đến vùng ngọt hóa. Sau đó đoàn đi khảo sát thực tế về tình hình ảnh hưởng của hạn hán và xâm nhập mặn trên địa bàn tỉnh.

(0) Bình luận
Nổi bật
Đại biểu Vương Thị Hương: Tháo gỡ vướng mắc chính sách để hỗ trợ đồng bào DTTS và miền núi
(TN&MT) - Phát biểu thảo luận tổ sáng 24/5, đại biểu Vương Thị Hương (Đoàn ĐBQH Hà Giang) cho rằng bên cạnh những chính sách hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi thì vẫn còn một số bất cập, vướng mắc đề nghị Chính phủ tiếp tục tháo gỡ để đạt được các mục tiêu đặt ra.
Đừng bỏ lỡ
  • Thể chế quan điểm tuần hoàn tài nguyên nước
    (TN&MT) - Trong bối cảnh hướng đến nền kinh tế tuần hoàn trên thế giới, việc tuần hoàn tài nguyên nước là một yêu cầu cần thiết. Các quốc gia cần xây dựng được môi trường pháp lý cho phép thực hiện các giải pháp kinh tế nước tuần hoàn, đưa ra các chính sách khuyến khích và thúc đẩy thích hợp, nâng cao nhận thức và tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng các công nghệ tiết kiệm nước, tuần hoàn, tái sử dụng nước. Dự thảo Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) đã đặt ra vấn đề này.
  • Đắk Nông: Đảm bảo nguồn nước, giúp người dân phát triển nông nghiệp
    Đắk Nông là một trong năm tỉnh thuộc Tây Nguyên được thiên nhiên ưu đãi với khí hậu thổ nhưỡng rất phù hợp để phát triển nông nghiệp. Trong đó, vấn đề an ninh nguồn nước luôn được tỉnh Đắk Nông quan tâm, chú trọng chỉ đạo đầu tư xây dựng hệ thống kênh mương thủy lợi, giúp người dân có điều kiện tốt nhất phát triển sản xuất nông nghiệp, vươn lên thoát nghèo.
  • Phiên họp thứ 55 Ủy hội sông Mê Công:Thúc triển khai thực hiện Tuyên bố chung Viêng Chăn
    (TN&MT) - Ngày 18/5, tại Đà Nẵng đã diễn ra Phiên họp lần thứ 55 của Ủy ban Liên hợp Ủy hội sông Mê Công quốc tế. Phiên họp nhằm thúc đẩy triển khai việc thực hiện Tuyên bố chung của Hội nghị cấp cao lần thứ 4 của Ủy hội sông Mê Công quốc tế (Tuyên bố chung Viêng Chăn).
  • Bạc Liêu: Quản lý, sử dụng, bảo vệ nguồn nước sạch cho mục tiêu phát triển bền vững
    Xác định tầm quan trọng của tài nguyên nước, trong những năm qua tỉnh Bạc Liêu đã triển khai nhiều giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nước, phục vụ đời sống nhân dân và mục tiêu giảm nghèo đa chiều, đảm bảo nước sạch cho mọi tầng lớp nhân dân. Để hiểu hơn về vấn đề này, Phóng viên Báo TN&MT đã có cuộc trao đổi với ông Nguyễn Bình Thuận, Giám đốc Sở TN&MT tỉnh Bạc Liêu.
  • Sơn La: Lấy ý kiến dự thảo Luật Tài nguyên nước (sửa đổi)
    (TN&MT) - Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Sơn La vừa tổ chức Hội nghị tham gia ý kiến vào dự án Luật Tài nguyên nước (sửa đổi). Bà Hoàng Thị Đôi - Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, Ủy viên Hội đồng Dân tộc của Quốc hội, Phó trưởng đoàn Đại biểu Quốc hội (ĐBQH) tỉnh chủ trì Hội nghị.
  • Vĩnh Phúc lấy ý kiến đóng góp vào Dự thảo Luật Tài nguyên nước
    (TN&MT) - Sáng 17/5, Đoàn ĐBQH tỉnh Vĩnh Phúc tổ chức hội nghị lấy ý kiến vào Dự thảo Luật Tài nguyên nước (sửa đổi). Ông Nguyễn Văn Mạnh - Phó Trưởng đoàn ĐBQH tỉnh Vĩnh Phúc chủ trì Hội nghị.
  • Quảng Ngãi: Tìm giải pháp cấp nước ngọt ổn định cho đảo tiền tiêu Lý Sơn
    Nguồn nước ngầm trên huyện đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi) đang dần cạn kiệt khiến đời sống sinh hoạt và sản xuất của bà con trở nên khó khăn. Các cơ quan chức năng của tỉnh cùng chính quyền địa phương khẩn trương tìm phương án tối ưu trong việc cấp nước ngọt ổn định, lâu dài cho đảo.
  • Thừa Thiên – Huế: Đưa vào vận hành hồ chứa trong tình huống khẩn cấp
    (TN&MT) - Dự án vận hành hồ chứa nhằm bảo vệ an toàn di tích lịch sử Cố đô Huế và hạn chế tình trạng lũ lụt, giảm thiểu thiệt hại cho lưu vực sông Hương.
  • Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Yên Bái lấy ý kiến tham gia vào Dự án Luật Đất đai và Luật Tài nguyên nước (sửa đổi)
    Sáng 12/5, tại Sở TN&MT, Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Yên Bái đã tổ chức Hội nghị lấy ý kiến tham gia vào Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) và Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) trình kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XV. Ông Đỗ Đức Duy – Bí thư Tỉnh uỷ, Trưởng Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Yên Bái chủ trì hội nghị.
  • Yên Bái: Nỗ lực đưa nước sạch tới người dân vùng nông thôn
    Vượt qua những khó khăn về địa hình, những năm qua tỉnh Yên Bái đã nỗ lực đưa nước hợp vệ sinh tới nhiều vùng nông thôn, đặc biệt là những địa phương có đồng bào dân tộc sinh sống.
  • Yên Bái: Gần 300 công trình cấp nước tập trung phát huy được hiệu quả
    (TN&MT) – Đến hết năm 2022, người dân khu vực nông thôn trên địa bàn tỉnh Yên Bái có khoảng trên 600.000 người được tiếp cận và sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh, đạt tỷ lệ 93%. Hiện toàn tỉnh có 358 công trình cấp nước tập trung, với 254 công trình đang phát huy tốt hiệu quả với tổng mức đầu tư trên 400 tỷ đồng.
  • Quy định rõ trách nhiệm các Bộ ngành, cơ quan đối với đảm bảo an ninh nguồn nước
    (TN&MT) - Chiều 9/5, tại Nhà Quốc hội, Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường tổ chức Phiên họp toàn thể lần thứ 6 về nội dung thẩm tra dự án Luật tài nguyên nước (sửa đổi). Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Lê Quang Huy và Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Nguyễn Thị Lệ Thủy đồng chủ trì Phiên họp.
  • Nguy cơ thiếu nước nghiêm trọng mùa khô tới, Bộ TN&MT chỉ đạo khẩn triển khai các biện pháp cấp bách
    (TN&MT) - Ngày 8/5, Bộ TN&MT đã có Công văn gửi các Bộ, UBND các tỉnh, thành phố, Tập đoàn Điện lực Việt Nam, và các đơn vị quản lý, vận hành các hồ chứa lưu vực sông thực hiện các giải pháp cấp bách, giảm thiểu nguy cơ thiếu nước cấp cho hạ du các lưu vực sông miền Trung, Tây Nguyên và Đông Nam Bộ các tháng cuối mùa cạn năm 2023.
  • “Con tằm nhả tơ” cho sự nghiệp khoa học thủy văn
    (TN&MT) - Hơn 50 năm hoạt động trong lĩnh vực thủy văn, cũng là từng ấy thời gian PGS.TS Vũ Văn Tuấn miệt mài dành tâm trí, sức lực cho các công trình nghiên cứu khoa học để tìm tòi và thực hiện các giải pháp sử dụng hợp lý tài nguyên nước - đối tượng của Thủy văn học.
  • Sơn La: Hưởng ứng Tuần lễ Quốc gia Nước sạch và VSMT 2023
    (TN&MT) - UBND tỉnh Sơn La vừa ban hành Kế hoạch số 106/KH-UBND, tổ chức các hoạt động hưởng ứng Tuần lễ Quốc gia Nước sạch và vệ sinh môi trường năm 2023.
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO