Chủ Nhật, 13/4/2025 17:13 (GMT +7)

| Hotline: 0983.970.780

Thứ Sáu 01/01/2021 , 14:13 (GMT+7)

Đổi thay ở làng quê xứ đạo ven biển

Thứ Sáu 01/01/2021 , 14:13 (GMT+7)

(TN&MT) - Điều gì đã khiến những làng quê, xứ đạo ven biển, vốn được xem là “vùng sâu, vùng xa” của Nam Định giờ đây lại đổi thay, phát triển như vậy? Đầu tiên phải nói đến là hạ tầng giao thông. Những tuyến giao thông huyết mạch, từ quốc lộ, đến tỉnh lộ trên địa bàn tỉnh đều đã được làm mới, nâng cấp, vươn xa, kết nối với vùng kinh tế biển của tỉnh. Giao thông phát triển đến đâu, sự giàu có xuất hiện đến đó.

Chủ tịch UBND tỉnh Nam Ðịnh Phạm Ðình Nghị từng cho biết, vùng kinh tế ven biển Nam Định được coi là động lực, tạo sức bật và thế ổn định cho địa phương. Tỉnh tập trung phát triển vùng kinh tế ven biển theo hai hướng chính là đầu tư khai thác, đánh bắt, chế biến thủy, hải sản và phát triển công nghiệp, dịch vụ. Triển khai quy hoạch các khu kinh tế ven biển, thành lập nhiều cụm công nghiệp tại các huyện ven biển. Hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông kết nối các khu vực trung tâm với các khu vực này được hoàn thiện, tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế biển.

Theo đó, tháng 5/2020, tỉnh Nam Định đã khánh thành, thông xe cầu Thịnh Long vượt sông Ninh Cơ, thuộc tuyến đường bộ ven biển tỉnh Nam Định kết nối hai huyện Hải Hậu và Nghĩa Hưng. Dự án đường trục kết nối vùng kinh tế biển của tỉnh với đường cao tốc Cầu Giẽ - Ninh Bình cũng được tiến hành xây dựng với tổng mức đầu tư Dự án là 5.326,5 tỷ đồng.

Giáo xứ Hải Lý phát triển kinh tế biển

Cũng theo ông Phạm Đình Nghị, hiện tại, điểm nhấn lớn nhất của công nghiệp ven biển Nam Ðịnh là Dự án KCN Dệt may Rạng Ðông (huyện Nghĩa Hưng) với tổng mức đầu tư hơn 4.600 tỷ đồng. KCN này khi đi vào hoạt động sẽ cung cấp cho thị trường hàng năm khoảng 1 tỷ m2 vải, thu hút khoảng 60 nghìn lao động trên nhiều lĩnh vực.

Trái ngược với Nghĩa Hưng là huyện Hải Hậu, cũng cùng khoảng thời gian đó, biển lại lấy đi một phần diện tích đất, nơi đây được gọi là vùng biển lở. Dù bên lở hay bên bồi, các huyện ven biển của Nam Định đều thường xuyên phải hứng chịu gió bão. Bão biển vào thường xuyên, khiến làng quê, xứ đạo, người dân sống ven biển Nam Định luôn phải sống trong khổ cực, vất vả và khó có cơ hội để phát triển.

Nhiều người dân nơi đây vẫn kể về câu chuyện Ngôi Thánh đường ở xã Hải Lý xưa nằm phía trong đê quốc gia, biển lấn dần, cả đê biển lẫn xóm làng, xứ đạo phải dịch vào phía trong, riêng Ngôi Thánh đường không thể di chuyển, phải nằm lại, giờ đứng ngay cạnh mép nước, người ta gọi đây là nhà thờ đổ. Ngay sau đó, chính quyền địa phương phải di dời gấp nơi ở của mấy chục hộ giáo dân xứ đạo Xương Điền vào phía trong đê chính. Xóm làng, xứ đạo nhiều đời quần tụ trở nên hoang tàn, chỉ còn Ngôi Thánh đường với phần còn lại là tháp chuông đứng chơ vơ bên mép sóng.

Sau lần ấy, từ sự hỗ trợ của Hội Chữ thập đỏ Đan Mạch, đê quốc gia qua khu vực xã Hải Lý đã được kiên cố lại. Khu vực Ngôi nhà thờ đổ giờ đã trở thành điểm du lịch, thu hút người dân, du khách từ nhiều nơi đổ về đây thăm quan. Điều ấy đủ thấy điểm du lịch nhà thờ đổ rất có sức hấp dẫn và những người được hưởng lợi đầu tiên từ sự thay đổi này có lẽ là những người dân địa phương.

anh-2(2).jpg

“Từ khi tuyến đê biển được kiên cố hóa, cuộc sống của người dân nơi đây trở nên bình yên. Chúng tôi hàng năm không còn phải quá lo bão lũ nhấn chìm. Thay vào đó, chúng tôi yên tâm làm ăn, canh tác, đánh bắt thủy, hải sản. Hải sản đánh bắt được bao nhiêu đều được các nhà hàng ở đây thu mua lại hết”, người dân địa phương chia sẻ.

Đại diện lãnh đạo UBND xã Hải Lý cho hay, từ năm 2019, huyện Hải Hậu đã có Đề án quy hoạch vùng bãi biển của xã, rộng 20 ha để làm Khu du lịch chứng tích biến đổi khí hậu và sinh thái môi trường biển. “Trước đây, đất đai ở Hải Lý chẳng mấy ai để ý đến do quanh năm bão, lũ, không kinh doanh sản xuất gì được. Nhưng thời gian gần đây, cuộc sống người dân đang hằng ngày bừng thức, phát triển, kéo theo giá nhà đất cũng tăng lên đến tiền tỷ, thậm chí không có đất để mua”.

Không chỉ có đánh bắt thủy, hải sản, người dân các xứ đạo còn tranh thủ mọi tiềm năng, lợi thế của vùng đất ven biển để làm giàu. Theo Chi cục Thủy sản Nam Ðịnh, hiện toàn tỉnh đã hình thành 50 vùng nuôi thủy sản tập trung, chuyển từ nuôi quảng canh và quảng canh cải tiến sang nuôi thâm canh và siêu thâm canh, áp dụng quy trình theo hướng VietGAP, công nghệ cao, trong đó hình thành các sản phẩm đặc sản thế mạnh của địa phương, như cá song, cá bống bớp ở huyện Nghĩa Hưng, tôm thẻ chân trắng ở huyện Hải Hậu, ngao vạng ở huyện Giao Thủy... Trong 10 năm qua, diện tích nuôi trồng thủy sản tăng từ khoảng 5.000 ha, lên gần 17.500 ha, sản lượng tăng 2,27 lần.

Ghé thăm cơ sở nuôi cá bống bớp của gia đình ông Nguyễn Văn Sơn ở thị trấn Rạng Đông, huyện Nghĩa Hưng gần tuyến đê Cồn Xanh, chúng tôi phần nào hiểu được vì sao nhiều hộ dân ven biển lại phát triển và giàu lên như thế. Nhờ sự năng động, nhạy bén gia đình ông Sơn xây được biệt thự cao tầng, có xe hơi và con đi du học nước ngoài. Tìm hiểu, quan sát mới hay trên vùng bãi bồi rộng bạt ngàn của huyện Nghĩa Hưng này không chỉ có một “ông Sơn”. Đến xã Giao Xuân (Giao Thủy) - thủ phủ ngao vạng của Nam Định và miền Bắc mới hay, từ người nông dân suốt ngày “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời” trên ruộng lúa, ông Phạm Văn Cương ở xã Bạch Long (huyện Giao Thủy) nay đã là chủ một cơ sở nuôi trồng thủy sản có tiếng trong vùng. Với 2,5 ha đất thuê của Nông trường Bạch Long, theo chủ trương của tỉnh, ông chuyển đổi diện tích trồng cói, trồng lúa kém hiệu quả sang nuôi trồng thủy sản; trừ chi phí, lãi khoảng một tỷ đồng mỗi năm.

Từ trên những ngọn tháp cao vút, chuông nhà thờ thong thả, ngân nga, lan tỏa xuống xóm làng, đồng ruộng... điều ấy đủ thấy những làng quê, xứ đạo ven biển Nam Định đang từng ngày đổi thay, phát triển.

  • Bắc Kạn: Hàng vạn du khách dự Lễ hội Lồng Tồng Ba Bể

    (TN&MT) - Hàng năm, cứ mỗi dịp xuân về, người dân Ba Bể lại tổ chức lễ hội để cầu chúc cho một năm mới có nhiều may mắn. Lễ hội Lồng Tồng Ba Bể là lễ “xuống đồng” lớn nhất của tỉnh Bắc Kạn, đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia năm 2014. Chính hội vào ngày mùng 10 tháng Giêng hàng năm, tại thôn Bó Lù, xã Nam Mẫu, huyện Ba Bể.

  • Hội nghị Lãnh đạo Phật giáo ba nước Việt Nam - Lào - Campuchia lần thứ 2

    Sáng 25/12, tại Thành phố Hồ Chí Minh, Giáo hội Phật Giáo Việt Nam tổ chức khai mạc Hội nghị Lãnh đạo Phật giáo ba nước Việt Nam - Lào - Campuchia lần thứ 2.

  • Nét đặc trưng Lễ hội thờ Thần nước vùng đất Tiền Bạt

    Người dân vùng đất Tiền Bạt, phường Thạch Quý, thành phố Hà Tĩnh coi lễ hội ở Miếu Đôi rất quan trọng, có tác động không nhỏ đến sự an cư của làng. Bởi vậy, trong nghi lễ thờ thần nước, với quan niệm “đất có thổ công, sông có hà bá”, lễ cầu mưa là một trong những tín ngưỡng đặc trưng.

  • Lễ “Bun huột nặm” của người Lào ở Điện Biên

    (TN&MT) - Tỉnh Điện Biên rất nhiều dân tộc anh em sinh sống, trong đó dân tộc Lào có khoảng hơn 4.000 người. “Bun huột nặm” là tiếng gốc Lào – dịch sang tiếng Việt có nghĩa là Tết té nước. Đây là lễ hội đặc trưng của dân tộc Lào, để chào đón năm mới theo phật lịch.

  • Tín ngưỡng thờ nước ở vùng đồng bằng sông Hồng

    (TN&MT) - Định cư quần tụ dọc theo hàng chục con sông lớn nhỏ từ ngàn năm nay, cộng đồng cư dân vùng đồng bằng sông Hồng vẫn luôn gìn giữ tín ngưỡng thờ nước và nghi lễ thỉnh nước trong các lễ hội dân gian.

  • Phật giáo Đà Nẵng bảo vệ môi trường

    Triết lý Phật giáo có nhiều răn dạy phật tử về sống hài hòa với tự nhiên, sống tiết kiệm, trân quý sinh vật sống rất phù hợp với lối sống xanh, bảo vệ môi trường hiện nay. Một nghiên cứu khảo sát của PGS.TS Lưu Quý Khương (Đại học Đà Nẵng) đã cho thấy, Phật giáo đóng vai trò tích cực trong tuyên truyền cũng như thực hành các hoạt động môi trường tại cộng đồng.

  • Chuẩn hóa lễ hội truyền thống

    (TN&MT) - Được xem là bảo tàng “sống” về văn hoá của các dân tộc đã được lưu truyền qua nhiều thế kỷ, lễ hội truyền thống đang đứng trước nhiều nguy cơ bởi tác động của xu thế hội nhập, “thương mại hóa”, “nhất thể hóa”, “đơn điệu hóa”… Trong bối cảnh đó, Bộ tiêu chí về xây dựng môi trường văn hóa trong lễ hội truyền thống (Bộ tiêu chí) được ban hành có ý nghĩa quan trọng, không chỉ hài hòa giữa yếu tố bảo tồn và phát triển, mà còn đảm bảo sự sống còn của những giá trị văn hóa truyền thống.

  • Góc nhìn của Phật giáo trong bảo vệ môi trường

    (TN&MT) - Trong giáo lý nhà Phật, môi trường được coi là một trong những yếu tố quan trọng để che chở, bao bọc cho sự sống con người. Với triết lý từ bi hỷ xả, Phật giáo mang đến thông điệp con người không nên gây tổn hại đến bất cứ điều gì, kể cả môi trường.

  • “Chuyển biến xanh” tại các lễ hội ở Lào Cai

    (TN&MT) - Tuyên truyền người dân và du khách ý thức hơn trong việc xả rác, đặt thêm các thùng rác, dọn dẹp vệ sinh trước, trong và sau các Lễ hội, thành lập các tổ kiểm tra nhắc nhở ý thức bảo vệ môi trường - đó là những hành động thiết thực của cơ quan chức năng tỉnh Lào Cai để nâng cao ý thức của nhân dân và du khách về bảo vệ môi trường tại các lễ hội trên địa bàn.

  • Sơn La: Quan tâm bảo vệ môi trường các lễ hội

    (TN&MT) - Nằm ở phía Tây Bắc của Tổ quốc, Sơn La hội tụ 12 dân tộc anh em với kho tàng di sản văn hóa mang sắc thái riêng độc đáo của từng dân tộc, đã tạo nên bức tranh văn hoá đa dạng, phong phú, cùng hệ thống lễ hội đa sắc thái. Quan tâm phát triển lễ hội gắn với bảo vệ môi trường là những mục tiêu trọng tâm đang được địa phương chú trọng triển khai.

  • Luật hóa quy định quản lý môi trường lễ hội

    (TN&MT) - Bảo vệ môi trường được xem là một trong các tiêu chí đánh giá năng lực công tác quản lý nhà nước, hiệu quả tổ chức lễ hội ở địa phương. Nhiều văn bản pháp luật đã quy định rõ về trách nhiệm, hướng dẫn việc quản lý môi trường, để hướng đến những “lễ hội xanh”.

  • Xanh - sạch - đẹp tại các lễ hội truyền thống dân tộc, tôn giáo

    (TN&MT)- Trong thời gian qua, các địa phương vùng đồng bằng sông Cửu Long tích cực triển khai các giải pháp nhằm nâng cao ý thức bảo vệ môi trường xanh - sạch - đẹp tại các lễ hội truyền thống dân tộc, tôn giáo diễn ra hàng năm.

Xem thêm

Đọc nhiều nhất