Tuy nhiên, ảnh hưởng do sự cố tràn chất thải hoặc sự cố chất ô nhiễm phát sinh từ chất thải chứa trong các hồ, đập thải quặng đuôi đã tác động đến môi trường, hệ sinh thái và sức khỏe cộng đồng ngay trong quá trình hoạt động chế biến và kéo dài cả khi đã ngừng hoạt động (đóng cửa mỏ). Vì vậy, việc xây dựng và ban hành các quy định về quản lý vận hành an toàn hồ chứa quặng đuôi trong hoạt động khai thác và chế biến khoáng sản là yêu cầu cần thiết hiện nay.
Theo thống kê của Tổng cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam, trên cả nước có khoảng 120 hồ chứa quặng đuôi với 109 đập chắn đang hoạt động trên địa bàn 16/63 tỉnh, thành phố. Phần lớn các hồ, đập chứa quặng đuôi nằm trên địa bàn các tỉnh miền núi phía Bắc. Ước tính số lượng hồ thải trên 4 tỉnh: Yên Bái, Bắc Kạn, Hà Giang, Lào Cai đã chiếm trên 50% tổng số hồ chứa quặng đuôi trên cả nước, trong đó Bắc Kạn là địa phương có nhiều hồ đập quặng đuôi nhất với 21 hồ.
Đập hồ chứa nước thải của Mỏ sắt Đại Khai, xóm Bình Minh, xã Minh Lập (huyện Đồng Hỷ - tỉnh Thái Nguyên) được gia cố để ngăn ngừa tình trạng nước tràn vào khu vực dân cư. |
Số liệu thống kê của Bộ Công Thương cho thấy, các hồ chứa có dung tích đa dạng từ vài chục nghìn đến hàng triệu m3 tuỳ thuộc vào công suất khai thác mỏ. Trên cả nước hiện có 10 hồ có dung tích trên 1 triệu m3; 38% các đập khảo sát được xây dựng bằng đất; 32% sử dụng kết hợp vật liệu đất, đá, bê tông, số lượng các đập xây bằng bê tông và đá hộc chỉ chiếm tương ứng 5% và 3%; 20/120 đập chắn được nâng chiều cao (một số đập nâng chiều cao từ 3 - 4 lần) nhưng 70% đập được nâng chiều cao không lập phương án thiết kế, các trường hợp còn lại đều do chủ đầu tư tự lập và phê duyệt; 39% doanh nghiệp không lập kế hoạch vận hành, bảo trì đập và hồ chứa trong quá trình sản xuất.
Trong khoảng thời gian 2011 - 2014 đã xảy ra 4 vụ vỡ đập ảnh hưởng đến môi trường xung quanh: Công ty Khoáng sản và Luyện kim Cao Bằng (tỉnh Cao Bằng), Công ty Nhôm Lâm Đồng (tỉnh Lâm Đồng), Công ty Apatit Việt Nam (tỉnh Lào Cai), Công ty Đầu tư và Khoáng sản Tây Bắc (tỉnh Yên Bái). Đặc biệt, năm 2018, vụ vỡ hồ chứa nước thải Xưởng chế biến tận thu kim loại và xử lý môi trường của Công ty CP Tập đoàn Khoáng sản công nghiệp 6666 tại xã Tam Lãnh, huyện Phú Ninh (Quảng Nam) đã khiến vườn tược của hàng trăm hộ dân ô nhiễm, để lại những hậu quả nghiêm trọng.
Từ thực tế nêu trên, có thể nhận thấy, vấn đề quản lý an toàn hồ thải quặng đuôi cần phải được đầu tư nghiên cứu đúng mức, cả trên lĩnh vực pháp lý và kỹ thuật vận hành, trách nhiệm của doanh nghiệp khi xảy ra sự cố.
Theo bà Hà Thị Chinh - Viện Khoa học và Công nghệ Mỏ - Luyện kim (Bộ Công thương), hoạt động thăm dò, khai thác, chế biến khoáng sản là hoạt động mang tính đặc thù cao. Công tác bảo vệ môi trường (BVMT) trong hoạt động thăm dò, khai thác, chế biến khoáng sản vì thế cũng mang tính đặc thù tương ứng. Vì vậy, cần phải có chính sách phù hợp để vừa phát triển được ngành công nghiệp khai khoáng, vừa bảo đảm BVMT tương ứng và tương thích.
Hiện nay các văn bản quy phạm phạm pháp luật về BVMT đã được ban hành khá đầy đủ. Tuy nhiên, việc áp dụng và triển khai trên thực tế còn nhiều vấn đề như việc ban hành các văn bản hướng dẫn còn chậm, công tác thực thi pháp luật chưa nghiêm, công tác giám sát chưa đạt được hiệu quả… Do vậy, cần thiết phải tập trung đầu mối, nghiên cứu khoa học nhằm đưa ra các quy định rõ ràng, cụ thể, dễ áp dụng, dễ thực hiện trong thực tiễn quản lý và sản xuất, kinh doanh.
Khu vực đập Quặng Đuôi – Mỏ sắt Trại Cau (huyện Đồng Hỷ - tỉnh Thái Nguyên). |
Trước hết, UBND các tỉnh/thành phố cần làm tốt công tác hướng dẫn, tuyên truyền phổ biến và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý môi trường và an toàn đập quặng đuôi trên địa bàn; tổ chức thanh tra, kiểm tra, xử lý các vi phạm hành chính về BVMT và quản lý an toàn đập quặng đuôi trên địa bàn; phân công, phân cấp trách nhiệm của các cơ quan quản lý chuyên ngành và chính quyền các cấp trong việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước về BVMT và an toàn đập quặng đuôi do địa phương quản lý.
Đối với doanh nghiệp khoáng sản chịu trách nhiệm chính trong suốt vòng đời hoạt động của đập/hò thải quặng đuôi, từ thiết kế, xây dựng, vận hành, đóng cửa và cải tạo phục hồi môi trường. Các doanh nghiệp khoáng sản cần tuân thủ nghiêm túc các yêu cầu pháp lý của các cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền; Các doanh nghiệp có nghĩa vụ phải nắm chắc các quy định liên quan đến đập quặng đuôi của mình và đảm bảo rằng chúng luôn được giám sát và phải có hồ sơ chi tiết đối với tất cả các tài liệu liên quan đến đập quặng đuôi.
Bà Hà Thị Chinh cho rằng, các doanh nghiệp khoáng sản cần thực hiện các cam kết: Lập kế hoạch, thiết kế, xây dựng và vận hành các đập quặng đuôi để giảm tác động lâu dài và các rủi ro; có trách nhiệm quản lý quặng đuôi với mục đích làm giảm thiểu các mối nguy hại; chuẩn bị đủ nguồn lực (nhân lực, vật lực) đảm bảo đáp ứng hoạt động quản lý đập quặng đuôi; thiết lập chương trình đánh giá, bao gồm cả đánh giá độc lập và cải tiến liên tục các vấn đề về sức khỏe, an toàn và hiệu quả môi trường thông qua quản lý rủi ro liên quan đến đập quặng đuôi; ứng dụng khoa học công nghệ vào tận thu triệt để các thành phần có giá trị còn lại trong quặng đuôi hoặc ứng dụng tuần hoàn, tái sử dụng quặng đuôi.