Theo Hội đồng Dân tộc, kết quả điều tra thực trạng kinh tế - xã hội 53 dân tộc thiểu số năm 2019, cả nước có 24.532 hộ dân tộc thiểu số thiếu đất ở, 210.400 hộ dân tộc thiểu số có nhu cầu hỗ trợ đất sản xuất.
Tình trạng thiếu đất sản xuất đối với đồng bào dân tộc thiểu số nghèo còn diễn ra ở nhiều địa phương. Việc bố trí đất ở, đất sản xuất cho đồng bào di cư tự phát chưa được giải quyết thấu đáo, kéo dài.
Trong khi đó, số liệu thống kê của Hội đồng Dân tộc qua giám sát việc thực hiện Nghị quyết số 112/2015/QH13 tại một số địa phương trên cả nước cũng cho thấy, tính đến cuối năm 2018, cả nước có đến 342.569/402.612 ha đất dự kiến được giao lại cho cộng đồng dân tộc thiểu số vẫn đang do các công ty nông, lâm nghiệp Nhà nước hoặc chính quyền địa phương quản lý (chiếm 85,1%), chưa giao cho cộng đồng.
Theo báo cáo của Bộ Tài nguyên và Môi trường vào tháng 7/2020, diện tích đất nông lâm trường mà các công ty lâm, nghiệp dự kiến bàn giao về địa phương từ khi thực hiện Nghị quyết số 28-NQ/TW năm 2004 đến nay đạt hơn 1 triệu ha (theo Nghị quyết số 28-NQ/TW là 621.565 ha; Nghị quyết số 30-NQ/TW là 465.029 ha). Tuy nhiên, diện tích đất từ các nông, lâm trường trả về địa phương mới chỉ thi hành mang tính mệnh lệnh trên giấy, còn triển khai thực địa chưa làm được; tỷ lệ đất giao cho người dân cũng rất ít.
Từ việc chậm triển khai bàn giao đất về địa phương nêu trên đã dẫn tới hệ quả năm nào đồng bào dân tộc thiểu số cũng kêu thiếu đất và con số thiếu đất rất cao nhưng mức độ giải quyết rất ít; trong khi đất nông lâm trường trả về nhưng chính quyền địa phương lại không giao cho dân.
Theo ông Triệu Văn Bình, Phó Vụ trưởng Vụ Dân tộc – Văn phòng Quốc hội, để giải bài toán nghịch lý thiếu – thừa đất đai hiện nay thì một giải pháp cần được triển khai quyết liệt là thu hồi diện tích đất có nguồn gốc từ các NLTQD chưa sử dụng, sử dụng không đúng mục đích, không hiệu quả, bàn giao cho chính quyền địa phương để quản lý. Từ đó ưu tiên giao đất cho đồng bào DTTS ở địa phương không có đất hoặc thiếu đất ở, đất sản xuất; giao đất cho các tổ chức, cá nhân thuê đất theo quy định của Luật Đất đai.
Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng, bài toán bảo đảm đất sản xuất cho đồng bào DTTS đã được đặt ra từ hàng chục năm nay, nhưng hiện vẫn chưa giải được triệt để. Ở nhiều địa phương đã thực hiện thu hồi đất có nguồn gốc từ các NLTQD, tiến hành cấp đất cho đồng bào thiếu đất, nhưng người dân không nhận do đất cằn cỗi, sỏi đá, hoặc cơ sở hạ tầng không có, không thể sản xuất…
Đó là chưa kể, không ít diện tích đất được cấp không phù hợp phong, tục, tập quán sản xuất của đồng bào. Trong khi Luật Đất đai (sửa đổi 2013) hiện hành quy định rõ trách nhiệm của Nhà nước về đất ở, đất sản xuất nông nghiệp đối với đồng bào DTTS phù hợp với phong tục, tập quán, bản sắc văn hóa và điều kiện thực tế của từng vùng. Do đó, để tiếp tục thực hiện hiệu quả chính sách hỗ trợ đất sản xuất trong thời gian tới, việc xác lập cơ sở dữ liệu về hiện trạng sử dụng đất của đồng bào DTTS cùng cần được triển khai đồng thời với nhiệm vụ xây dựng cơ sở dữ liệu về đất đai quốc gia.
Để giải quyết vấn đề này, Nghị quyết số 18-NQ/TW Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về “Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý và sử dụng đất, tạo động lực đưa nước ta trở thành nước phát triển có thu nhập cao” ngày 16/6/2022 đã xác định rõ, cần có chính sách phù hợp để ưu tiên giao đất cho đồng bào DTTS thiếu đất sản xuất, cùng với các cơ chế hiệu quả để ngăn chặn người dân chuyển nhượng sau khi được giao đất.
Tại dự thảo Luật đất đai (sửa đổi) lần 2, Bộ TN&MT đã đề xuất quy định về đất do các công ty nông, lâm nghiệp quản lý, sử dụng.
Trong đó quy định, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định: Công nhận quyền sử dụng đất, cấp Giấy chứng nhận đối với phần diện tích công nhận cho tổ chức đang sử dụng đúng mục đích theo phương án đã được phê duyệt; Thực hiện tiếp nhận đối với phần diện tích công ty nông, lâm nghiệp đang quản lý, sử dụng đất có nguồn gốc nông trường, lâm trường bàn giao cho địa phương; Thu hồi diện tích đang cho thuê, cho mượn trái pháp luật; bị lấn, chiếm, liên doanh, liên kết, hợp tác đầu tư không đúng quy định để tạo quỹ đất theo quy định.
Đối với diện tích đất mà tổ chức sử dụng đất đã giải thể; diện tích đất bàn giao cho địa phương theo quy định thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định việc sử dụng vào mục đích theo quy hoạch sử dụng đất như sau: Ưu tiên giao đất, cho thuê đất đối với đồng bào dân tộc thiểu số theo quy định; Giao đất, cho thuê đất đối với cá nhân ở địa phương không có đất hoặc thiếu đất sản xuất; Công nhận quyền sử dụng đất cho người đang sử dụng đất là người nhận khoán, người đang thuê đất sử dụng đất;Giao đất, cho thuê đất để sử dụng vào mục đích công cộng và các mục đích khác theo quy định của pháp luật. Chính phủ quy định chi tiết quy định này.
Bài 4: Cần có chế định riêng về đất đai cho đồng bào dân tộc thiểu số