Báo cáo tại phiên họp Ủy ban Thường vụ Quốc Hội mới đây về thực hiện Nghị quyết số 76/2014/QH13 đẩy mạnh giảm nghèo bền vững đến năm 2020 cho thấy, nước ta vẫn còn 58.000 hộ dân thiếu đất ở và 303.578 hộ thiếu đất sản xuất. Những con số này cho thấy vấn đề đất đai cho đồng bào dân tộc thiểu số còn nhiều vướng mắc cần được quan tâm nghiêm túc và có giải pháp triệt để hơn.
Theo nhiều chuyên gia, nguyên nhân của việc thiếu đất sản xuất, đất ở là do nghèo đói nên đã chuyển nhượng, cầm cố đất đai và không có khả năng mua, chuộc lại; do bị thu hồi đất phục vụ các dự án phát triển kinh tế - xã hội. Bên cạnh đó, việc rà soát, sắp xếp đất đai do các nông, lâm trường, công ty nông, lâm nghiệp, ban quản lý rừng quản lý, sử dụng còn chậm và không hiệu quả: Các nông, lâm trường, công ty nông, lâm nghiệp quản lý, sử dụng một diện tích đất đai rộng lớn chủ yếu nằm ở khu vực đồng bào DTTS, đặc biệt là các DTTS ít người sinh sống nhưng hoạt động không hiệu quả; trong khi đó quỹ đất đai để giao cho đồng bào sử dụng thì còn hạn chế.
Tại nhiều nơi, nhiều địa phương còn diễn ra tình trạng đồng bào DTTS sau khi được Nhà nước giao đất sản xuất theo các chính sách hỗ trợ nhưng đã chuyển nhượng lại đất cho người khác. Bên cạnh đó, một số chính quyền địa phương quản lý đất đai chưa tốt, còn buông lỏng trong quản lý (cho thuê, cho mượn, tranh chấp, đất bị lấn chiếm,.. gây ra những tồn tại và bức xúc; tập quán của người dân dễ bị lợi dụng...
Đơn cử, như tình trạng bán điều non, vay tiền lãi suất cao, cầm cố đất, bán đất… đang trở thành chuyện thời sự trong vùng đồng bào các DTTS trên địa bàn tỉnh Bình Phước, nhất là đồng bào dân tộc S’tiêng. Do cần tiền xây nhà, mua xe gắn máy, tiêu xài, tổ chức cưới hỏi… nên nhiều diện tích điều của các hộ dân đã được bán non, sang nhượng, cầm cố… dẫn đến mất nương rẫy, phương tiện làm ăn, nghèo đói bủa vây.
Ông Lý Trọng Nhân, Trưởng Ban Dân tộc tỉnh Bình Phước, cho biết, nguyên nhân dẫn đến tình trạng bán điều non, vay tiền lãi suất cao, cầm cố đất, bán đất… những năm gần đây là do tốc độ tăng trưởng kinh tế của vùng DTTS còn chậm so với mặt bằng chung của tỉnh. Mặt khác, do nhận thức của một bộ phận đồng bào DTTS còn đơn giản và hạn chế. Cuộc sống khó khăn nhưng họ vẫn vay nợ để mua sắm, làm nhà đẹp, mua xe, tổ chức cưới hỏi linh đình... Mặt khác, công tác tuyên truyền, vận động ở địa phương chưa thường xuyên, sâu sát. Một bộ phận người dân khi tiếp cận được nguồn vốn vay của các tổ chức tín dụng lại sử dụng không đúng mục đích mà chi tiêu cho sinh hoạt gia đình nên khi đến thời hạn phải trả nợ lại đi vay “nóng” lãi suất cao.
Theo thống kê của Công an tỉnh Bình Phước, hiện có 485 hộ đồng bào DTTS bán điều non với diện tích trên 873ha, số tiền trị giá hơn 56,3 tỷ đồng; có 107 hộ cầm cố, sang nhượng đất ở, đất sản xuất với diện tích 118,62ha, số tiền hơn 27,5 tỷ đồng; 76 hộ vay tiền lãi suất cao, số tiền hơn 6,5 tỷ đồng, lãi suất 25-50%/năm.
Theo TS. Hoàng Xuân Lương, nguyên Thứ trưởng, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc; Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu quyền con người vùng dân tộc, miền núi, qua khảo sát thực tế của Trung tâm nghiên cứu Quyền con người vùng dân tộc, miền núi tại 10 tỉnh Tây Nam Bộ năm 2018 và tham gia đoàn giám sát của Ủy ban Thường Vụ Quốc Hội về thưc hiện chính sách dân tộc năm 2019- 2020, chúng tôi nhận thấy một số vấn đề sau đây: Nhiều địa phương không còn quỹ dất, nên không thể giải quyết được mục tiêu đất sản xuất; có một số nơi có thể thu hồi được đất, nhưng giá đất cao hơn nhiều lần tiền đền bù, tiền cấp từ Ngân sách và vốn vay từ ngân hàng chính sách không đồng bộ, nên không thể thu hồi; có nhiều nơi thu hồi đựơc đất từ các Nông Lâm trường, nhưng đất cằn cỗi, sỏi đá, người dân không thể sản xuất.
Chủ trương của chính phủ rà soát, thu hồi đất các Nông lâm Trường sử dụng không hiệu quả đê giao lại cho dân, nhưng thực tế chỉ có các Nông Lâm Trường do địa phương quản lý thực hiên việc thu hồi, còn các Nông Lâm Trường do các Bộ, ngành ở Trung ương quản lý thì khó thực hiện, nhất là từ khi giao quyền quản lý về cho Ủy ban quản lý vốn nhà nước
Từ đó, để giải quyết vấn đề thiếu đất sản xuất, đảm bảo quyền sinh kế cho đồng bào dân tộc thiểu số TS. Lương kiến nghị: Xác định rõ hơn mục tiêu giải quyết đất sản xuất cho đồng bào Dân tộc thiểu số không phải chỉ là có đất, mà là tạo sinh kế bền vững, nơi còn quỹ đất thì có chính sách đủ nguồn lực để thu hồi cấp cho đồng bào, ở những nơi không còn quỹ đât thì tập trung chuyển đổi nghề, miễn sao có thu nhập ổn đinh, tạo sinh kế bền vững.
Tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật về đất đai liên quan đến quyền tiếp cận đất đai của đồng bào DTTS: Rà soát, sửa đổi, bổ sung quy định của Luật đất đai về việc giao đất Rừng Đặc dụng, Phòng hộ và Rừng sản xuất cho đồng bào, đảm bảo sự thống nhất, đồng bộ với quy định của Luật Lâm nghiệp; quy định chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư tại vùng sâu vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số như về mặt bằng sản xuất, kinh doanh (được miễn tiền thuê đất và thuế sử dụng đất với thời hạn quy định cụ thể tuỳ theo từng địa bàn); được miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp; được quỹ hỗ trợ đầu tư xem xét cho vay tín dụng trung hạn và dài hạn.
Thực hiện hiệu quả việc tạo quỹ đất phục vụ việc hỗ trợ đất sản xuất cho đồng bào DTTS: Rà soát lập, điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất các cấp theo quy định, trong đó quan tâm việc bố trí ổn định các khu dân cư, khu sản xuất cho đồng bào, đảm bảo phát triển toàn diện cả về kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh; đẩy nhanh tiến độ rà soát thu hồi diện tích đất đai của các nông, lâm trường, công ty nông, lâm nghiệp trả lại cho địa phương; bố trí đủ vốn để tổ chức đo đạc, xác định cụ thể ranh giới, diện tích đất để giao đất sản xuất, cấp Giấy chứng nhân cho các hộ gia đồng bào DTTS thiếu đất sản xuất; hỗ trợ khai hoang tạo quỹ đất sản xuất gồm: Khai hoang, phục hóa, tạo ruộng bậc thang, nương rẫy cho hộ đồng bào các dân tộc thiểu số chưa có hoặc thiếu đất sản xuất.
Ngoài ra, đẩy mạnh việc tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về đất đai cho đồng bào DTTS; hỗ trợ để đồng bào quản lý, sử dụng có hiệu quả quỹ đất sản xuất đã giao, có các giải pháp quản lý theo cộng đồng, không cho chuyển nhượng.