Chú trọng nguồn lực tài chính khắc phục hậu quả thiên tai khu vực miền núi

Thanh Tùng | 17/09/2021, 05:49

(TN&MT) - Thiên tai ngày càng diễn biến bất thường, khó dự báo kết hợp với biến đổi khí hậu đã tạo ra nhiều loại hình thiên tai nguy hiểm, với tần suất ngày càng tăng, gây thiệt hại nặng nề, trước hết là về kinh tế.

Đáng nói, thiệt hại do thiên tai lại chủ yếu xảy ra ở các địa phương ở miền núi, kinh tế còn khó khăn, chưa tự cân đối được ngân sách. Do đó, việc bố trí nguồn lực cho việc khắc phục hậu quả, tái thiết sau thiên tai được các Bộ, ngành, địa phương rất chú trọng trong những năm qua.

Tái thiết sau thiên tai

Yên Bái là tỉnh nằm ở khu vực miền núi phía Bắc nước ta, có địa hình địa chất phức tạp, đồi núi cao, độ dốc lớn, chia cắt mạnh, có nhiều sông suối. Những năm gần đây, Yên Bái thường xuyên chịu ảnh hưởng của các hiện tượng thiên tai như lũ quét, sạt lở đất, mưa đá kèm dông lốc, rét đậm, rét hại…

Thống kê của Ban chỉ huy PCTT&TKCN tỉnh Yên Bái cho biết, năm 2020, toàn tỉnh xảy ra 19 đợt thiên tai làm 2 người chết, 16 người bị thương; hư hỏng 7.787 căn nhà, thiệt hại 4.100 ha lúa, hoa màu, cây ăn quả, cây lâm nghiệp. Thiên tai cũng làm thiệt hại 216 ha diện tích nuôi cá truyền thống, 480 con gia súc và hơn 17.700 con gia cầm bị chết; 150 cột điện bị đổ gãy; hơn 9,3 km đường dây điện bị đứt; 212 công trình thủy lợi, 207 vị trí đường quốc lộ, 618 vị trí đường tỉnh bị hư hỏng; 18 cầu tạm bị cuốn trôi. Tổng giá trị thiệt hại ước tính 118 tỷ đồng.

Hình ảnh Chòm Cu Vai thuộc khu tái định cư thôn Háng Xê, xã Xà Hồ, huyện Trạm Tấu, tỉnh Yên Bái.

Trước thực trạng đó, công tác khắc phục hậu quả thiên tai được tỉnh Yên Bái quan tâm chỉ đạo theo phương châm “4 tại chỗ” với sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, giúp sớm ổn định đời sống, sản xuất của nhân dân. Đối với các đợt thiên tai lớn, Yên Bái đã kịp thời đề nghị sự hỗ trợ của Trung ương và vận động các nguồn xã hội hóa để có đủ nguồn lực tái thiết.

Ban chỉ huy PCTT&TKCN tỉnh Yên Bái cho biết, công tác tái định cư người dân chịu ảnh hưởng của thiên tai chuyển hướng từ việc triển khai các dự án tái định cư tập trung quy mô lớn sang hình thức tái định cư xen ghép để đảm bảo nhanh, kịp thời; phù hợp với tập tục, thói quen sinh sống, canh tác của người dân. Đồng thời cũng dễ huy động các nguồn lực xã hội hóa. Đến đầu năm 2021, tỉnh đã ổn định cuộc sống cho trên 2.246 hộ, di dời trên 2.285 hộ bị ảnh hưởng và trên 100 công trình cơ sở hạ tầng bị hư hỏng. Tổng kinh phí đã huy động gần 1.000 tỷ đồng.

Cùng với Yên Bái, tỉnh Quảng Nam có 9 huyện miền núi với dân số khoảng 330.404 người, chiếm 22% dân số toàn tỉnh. Do địa hình miền núi rất phức tạp, có độ dốc lớn, bị chia cắt bởi nhiều sông, suối, các khu dân cư ở chân núi, lưng chừng núi tiềm ẩn nguy cơ sạt lở đất; các khu dân cư ở khu vực trũng thấp thì dễ bị lũ ống, lũ quét. Vùng đồng bằng, các khu vực trũng thấp dễ bị ngập lụt, các khu vực ven sông, suối thì có nguy cơ sạt lở đất bờ sông, bờ suối. Thống kê cho thấy, năm 2020, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 5 vụ sạt lở đất nghiêm trọng làm chết 30 người, mất tích 17 người, hư hỏng nhiều nhà cửa, tài sản của người dân.

Hỗ trợ người dân khắc phục hậu quả thiên tai, tỉnh Quảng Nam đã tiến hành bố trí dân cư trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2013-2020 theo Quyết định 1776/QĐ-TTg. Theo đó, tổng số hộ được bố trí, ổn định dân cư là 1.197 hộ. Thực hiện hỗ trợ di dời nhà trực tiếp cho hộ gia đình thực hiện di dời, tái định cư trong nội vùng dự án với mức hỗ trợ 20 triệu đồng/hộ. Tổng số kinh phí đã thực hiện hơn 23 tỷ đồng; trong đó: Ngân sách Trung ương hơn 8 tỷ đồng, ngân sách tỉnh gần 15 tỷ đồng. Riêng 9 huyện miền núi, từ năm 2013 đến 2016, đã tổ chức thực hiện di dời 772 hộ dân vùng thiên tai; trong đó bố trí tập trung là 444 hộ, bố trí xen ghép là 328 hộ; tổng kinh phí hỗ trợ di chuyển nhà cấp phát trực tiếp đến hộ là hơn 12 tỷ đồng.

Những ngôi nhà mới trong khu tái định cư cho bà con xã Trà Leng (huyện Nam Trà My, tỉnh Quảng Nam) sau lũ quét.

Tiếp đó, tỉnh Quảng Nam tiến hành sắp xếp, ổn định dân cư trên địa bàn 9 huyện miền núi giai đoạn 2017-2020 theo Nghị quyết số 12/2017/NQ-HĐND của HĐND tỉnh. Cụ thể, tổng kinh phí UBND tỉnh đã bố trí trong 4 năm (2017-2020) cho 9 huyện miền núi thực hiện cơ chế sắp xếp, ổn định dân cư là 385 tỷ đồng. Đến 30/9/2020, có tổng số 6.462 hộ tham gia sắp xếp di dời chỗ ở, bao gồm: 2.836 hộ dân vùng thiên tai; 1.488 hộ dân tộc thiểu số; 2.115 hộ nghèo vùng đặc biệt khó khăn; 10 hộ ra khỏi khu vực bảo vệ của rừng phòng hộ, đặc dụng; 13 hộ dân khác cần thiết phải sắp xếp.

Một báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng cho biết, trong 8 tháng đầu năm 2020, Chính phủ đã hỗ trợ nguồn kinh phí khắc phục lốc, sét, mưa đá, lũ quét, sạt lở đất cho các tỉnh miền núi phía Bắc theo Quyết định số 1930/QĐ-TTg ngày 26/11/2020 của Thủ tướng Chính phủ là 381,8 tỷ đồng. Trong đó, kinh phí các tỉnh được hỗ trợ như sau: Hà Giang: 75 tỷ đồng; Bắc Cạn: 13,4 tỷ đồng: Cao Bằng: 30 tỷ đồng; Lào Cai: 28 tỷ đồng; Sơn La: 20 tỷ đồng; Điện Biên: 45 tỷ đông; Lai Châu: 78,2 tỷ dồng; Phú Thọ: 40 tỷ đổng; Hòa Bình: 20 tỷ đồng; Tuyên Quang: 30 tỷ đồng. Lạng Sơn: 2,2 tỷ đồng.

Đảm bảo nguồn lực

Thông tin về nguồn lực tài chính phục vụ cho công tác phòng, chống thiên tai năm 2020 tại Hội nghị trực tuyến toàn quốc về công tác PCTT&TKCN năm 2021, Bộ Tài chính cho biết, Việt Nam là quốc gia thường xuyên bị ảnh hưởng bởi thiên tai, do đó, Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách để ưu tiên nguồn lực phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai như hỗ trợ từ ngân sách nhà nước, quỹ phòng, chống thiên tai; ưu đãi về thuế, tín dụng; chia sẻ rủi ro thông qua chính sách bảo hiểm và huy động từ cộng đồng.

Bộ Tài chính đã bố trí 473 tỷ đồng kinh phí hỗ trợ phòng, chống thiên tai cho các Bộ, ngành, địa phương năm 2020.

Theo đó, Bộ Tài chính cho biết đã cùng Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với các cơ quan liên quan báo cáo Chính phủ trình Quốc hội bố trí kinh phí hỗ trợ phòng, chống thiên tai năm 2020 cho các Bộ, ngành, địa phương. Cụ thể, bố trí kinh phí cho các Bộ, ngành là 473 tỷ đồng, bao gồm: Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống thiên tai là 33 tỷ đồng; Bộ Giao thông vận tải là 310 tỷ đồng, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn là 130 tỷ đồng (xử lý các sự cố cấp bách về đê điều).

Ngoài ra, Bộ Tài chính cũng thực hiện bố trí kinh phí cho các địa phương thông qua 2 Chương trình mục tiêu là 8.909 tỷ đồng. Trong đó, Chương trình mục tiêu tái cơ cấu kinh tế nông nghiệp và phòng chống, giảm nhẹ thiên tai, ổn định đời sống dân cư là 3.263 tỷ đồng; Chương trình mục tiêu ứng phó với biến đổi khí hậu và tăng trưởng xanh là 5.646 tỷ đồng.

Về hỗ trợ kinh phí từ dự phòng ngân sách Trung ương năm 2020, trên cơ sở báo cáo của các Bộ, ngành, địa phương, Bộ Tài chính đã phối hợp với Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống thiên tai và các Bộ có liên quan trình Thủ tướng Chính phủ hỗ trợ kinh phí khắc phục hậu quả thiên tai cho các địa phương là 10.705 tỷ đồng để hỗ trợ phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai.

Dự báo, năm 2021, tình hình thiên tai tiếp tục có những diễn biến phức tạp. Do đó, Bộ Tài chính đề nghị UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương ưu tiên, chủ động bố trí và sử dụng nguồn lực địa phương (dự phòng ngân sách địa phương, quỹ dự trữ tài chính, quỹ phòng, chống thiên tai và các nguồn huy động hợp pháp khác) để phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai.

Trong đó, hỗ trợ bằng tiền là 9.426 tỷ đồng để khắc phục hậu quả thiên tai, thực hiện các dự án phòng, chống thiên tai và ổn định dân cư năm 2020, gồm: Hỗ trợ cho các địa phương để khắc phục hậu quả các đợt bão, mưa lũ, lũ quét, sạt lở đất, mưa đá là 1.885 tỷ đồng. Hỗ trợ các địa phương vùng đồng bằng sông Cửu Long kinh phí phòng, chống và khắc phục hậu quả hạn hán, xâm nhập mặn là 530 tỷ đồng. Hỗ trợ các địa phương đế khôi phục sản xuất theo Nghị định số 02/2017/NĐ-CP ngày 9/1/2017 của Chính phủ về cơ chế, chính sách hỗ trợ sản xuất nông nghiệp đế khôi phục sản xuất vùng bị thiệt hại do thiên tai, dịch bệnh là 491 tỷ đồng. Hỗ trợ các địa phương thực hiện dự án đầu tư cấp bách, trong đó tập trung ưu tiên cho các dự án, công trình phòng, chống khắc phục hậu quả thiên tai (lũ lụt, hạn hán, xâm nhập mặn, sạt lở đất) là 6.520 tỷ đồng.

Đồng thời, hỗ trợ bằng hiện vật (lương thực, vật tư, thiết bị, hóa chất, hạt giống) từ dự trữ quốc gia tương đương trị giá khoảng 1.279 tỷ đồng.

Bài liên quan
  • Quảng Nam: Đảm bảo lương thực cho vùng bị sạt lở, cô lập do lũ lớn
    (TN&MT) - Do ảnh hưởng của bão số 5 gây mưa lớn trên các huyện miền núi Quảng Nam khiến lượng nước từ thượng nguồn đổ về nhiều, gây sạt lở và cô lập cục bộ một số khu vực. Chính quyền các địa phương đã chủ động nhiều phương án tích trữ, vận chuyển lương thực bằng cáp treo, đảm bảo bà con ổn định đời sống trong điều kiện mưa lũ kéo dài.

(0) Bình luận
Nổi bật
Bài học đồng lòng - từ khóa của thành công
Cách trung tâm huyện 23,5km, Chiềng Khoa như khối cơ bắp cuộn lên trên cánh tay của Vân Hồ. Nơi đây, ba năm về trước, xã Chiềng Khoa được công nhận xã Nông thôn mới đầu tiên. Đi tìm “điểm sáng” Chiềng Khoa, chúng tôi được nghe rất nhiều về hai chữ “đồng lòng”.
Đừng bỏ lỡ
  • Phú Yên: Tìm giải pháp cho những công trình nước sạch vùng nông thôn, vùng đồng bào DTTS
    (TN&MT) - Phú Yên là một trong số những địa phương chịu ảnh hưởng nặng nề của hạn hán. Người dân nhiều địa phương trong tỉnh, đặc biệt là khu vực miền núi thường xuyên thiếu nước sinh hoạt. Tuy nhiên, nghịch lý là hiện nay hàng chục công trình cấp nước sinh hoạt nông thôn tập trung do Nhà nước đầu tư xây dựng đã bị bỏ hoang từ nhiều năm qua.
  • Nuôi dê thương phẩm giúp nhiều hộ dân đổi đời
    Thời gian qua, việc chia sẻ kinh nghiệm nuôi dê thương phẩm và liên kết trong chăn nuôi, bao tiêu sản phẩm đang từng bước đem lại hiệu quả kinh tế lớn, đồng thời mở ra hướng đi mới cho hàng chục hộ dân ở huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang. Theo số liệu báo cáo, ước tính tổng đàn Dê thương phẩm của huyện đến hết tháng 6/2023 đạt khoảng 10.000 con.
  • Mường Lát (Thanh Hóa): Cuộc sống mới ở khu tái định cư
    Bản Ón, xã Tam Chung, huyện Mường Lát (Thanh Hóa) có 100% là đồng bào dân tộc Mông sinh sống. Đa số người dân trong bản thuộc diện hộ nghèo và cận nghèo. Phần lớn các hộ dân dựng nhà bên những sườn núi cheo leo, nên luôn phải đối mặt với nguy cơ lũ quét, sạt lở rất cao vào mùa mưa lũ. Nhưng giờ đây người dân trong bản không còn phải nơm nớp lo sợ, bởi khu tái định cư do Nhà nước đầu tư khang trang, đồng bào đã và đang bắt tay vào xây dựng cuộc sống mới.
  • Bắc Quang - Hà Giang: Nỗ lực giúp dân xóa nghèo bền vững
    Thực hiện Nghị quyết số 05-NQ/TU, ngày 1/11/2020 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Hà Giang về Chương trình cải tạo vườn tạp, phát triển kinh tế vườn hộ để tạo sinh kế cho người dân, giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021 - 2025, huyện Bắc Quang đã chủ động tuyên truyền, xây dựng kế hoạch và triển khai hiệu quả giúp hàng chục hộ dân xóa nghèo và vươn lên khá giả.
  • Sắc xanh xứ đạo xã Phú Sơn
    Bà con giáo xứ tại xã Phú Sơn, thị xã Nghi Sơn (Thanh Hóa) luôn nêu cao phương châm sống “tốt đời đẹp đạo”, tự giác nâng cao ý thức bảo vệ môi trường, giữ gìn vệ sinh đường làng, ngõ xóm.
  • Theo chân cán bộ kiểm lâm “cắm bản”
    (TN&MT) - Dọc theo những con đường đến với xã vùng biên Phiêng Pằn của huyện Mai Sơn (Sơn La), trên những quả đồi bạc màu, hoang hóa ngày nào, đang xanh lên màu xanh của những cánh rừng. Trong thành công ấy, có bóng dáng, sự nỗ lực quên mình của người kiểm lâm viên địa bàn ngày ngày “bám đất, bám rừng”.
  • Cây dược liệu- Cây xóa nghèo bền vững ở các huyện miền Núi
    Cùng với chính sách xóa đói, giảm nghèo của Chính phủ, trong những năm gần đây, Tỉnh ủy, UBND tỉnh Thanh Hóa đã đưa ra nhiều chương trình xóa đói, giảm nghèo cho bà con các huyện miền Núi. Trong những chương trình đó thì phát triển nguồn lực tại chỗ là một trong những thế mạnh của người dân như: Phát triển và bảo vệ rừng, trồng cây lâm nghiệp, nông nghiệp, trồng dược liệu… Nhờ đó, người dân vùng sâu, vùng xa Xứ Thanh đã thoát nghèo bền vững.
  • Lễ cầu mưa của dân tộc Hà Nhì
    (TN&MT) - Hàng năm từ 15/5 - 15/7 (âm lịch) người Hà Nhì ở Mường Nhé (Điện Biên) lại chuẩn bị cho Tết mùa mưa (Dế khù chà – theo tiếng Hà Nhì). Đây là dịp để người Hà Nhì cầu mong cho mưa thuận gió hòa, vụ mùa tốt tươi, con cháu họ được sum vầy hạnh phúc. Ngoài ý nghĩa tín ngưỡng tâm linh thì đó còn là thời điểm họ cảm tạ thần mưa đã dâng nước suối đủ tưới mát cây cối, ruộng đồng, không làm lũ ống, lũ quét... Cảm tạ đất trời đã che chở họ trong cả một năm qua.
  • Người Mạ giữ rừng vì giá trị truyền thống
    (TN&MT) - Nghề giữ rừng tại Vườn Quốc gia Tà Đùng (xã Đắk Som, huyện Đắk G’long) đã mang lại nguồn thu nhập cho các hộ đồng bào dân tộc thiểu số người Mạ từ khoản kinh phí từ dịch vụ môi trường rừng. Với đại đa số các hộ dân tại đây, giữ rừng không chỉ mang lại thu nhập mà còn là trách nhiệm với tổ tiên và các thế hệ mai sau bởi nghề rừng được xem như một nghề truyền thống.
  • Đồng bào Cơ Tu giữ rừng
    (TN&MT) - Ngàn đời nay, đồng bào Cơ Tu ở huyện Tây Giang (Quảng Nam) xem rừng như người Mẹ vĩ đại che chở mang lại sự sống cho dân làng. Chính từ sự ngưỡng vọng, tôn vinh, trân trọng ấy nên người dân Tây Giang luôn yêu quý, bảo vệ rừng.
  • Chính sách cấp nước sạch cho bà con dân tộc thiểu số
    (TN&MT) - Hiện nay, nhiều thôn bản vùng đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) và miền núi, điều kiện cơ sở hạ tầng còn rất khó khăn và thiếu thốn, đặc biệt là thiếu nguồn nước sạch cho sinh hoạt của người dân. Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021-2025 đã đưa vấn đề hỗ trợ nước sinh hoạt bao gồm hỗ trợ nước sinh hoạt phân tán và hỗ trợ nước sinh hoạt tập trung là một trong những trọng điểm.
  • Kinh nghiệm giữ rừng của người Tày Lạng Sơn
    Thôn Đông Đằng, xã Bắc Quỳnh (Bắc Sơn, Lạng Sơn) nằm cạnh một rừng nghiến cổ thụ xanh mướt. Bao đời nay, bằng tấm lòng yêu rừng, giữ rừng của người dân nơi đây, hàng trăm gốc nghiến quý giá vẫn giữ nguyên vẹn, sừng sững như minh chứng sống cho những thăng trầm, đổi thay trên vùng đất cách mạng Bắc Sơn.
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO