Phát triển bền vững

Chính sách cấp nước sạch cho bà con dân tộc thiểu số

Thủy Nguyễn 10:38 19/06/2023

(TN&MT) - Hiện nay, nhiều thôn bản vùng đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) và miền núi, điều kiện cơ sở hạ tầng còn rất khó khăn và thiếu thốn, đặc biệt là thiếu nguồn nước sạch cho sinh hoạt của người dân. Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021-2025 đã đưa vấn đề hỗ trợ nước sinh hoạt bao gồm hỗ trợ nước sinh hoạt phân tán và hỗ trợ nước sinh hoạt tập trung là một trong những trọng điểm.

Nhiều bất cập từ chính sách 

Nước sạch là tài nguyên quý giá, nhưng không phải là vô tận. Nước là cần thiết cho sự sống nhưng khi bị biến đổi, ô nhiễm có thể gây ra những hiểm họa khôn lường cho con người. Nước sạch không thể thiếu trong đời sống của con người, hàng ngày chúng ta sinh hoạt đều phải sử dụng nguồn nước sạch từ ăn uống, tắm rửa, giặt giũ, vệ sinh… Ngoài ra, việc sử dụng nước sạch trong sản xuất công nghiệp, nông nghiệp để tạo ra các thực phẩm sạch cũng là yếu tố quan trọng quyết định sức khỏe của con người.

Hiện nay, cấp nước an toàn khu vực nông thôn nói chung và khu vực dân tộc miền núi, thiểu số ít người luôn được nhà nước và nhân dân quan tâm. Việt Nam đã đạt được kết quả to lớn trong lĩnh vực cấp nước sạch và vệ sinh nông thôn. Sau 40 năm, từ khi được sự hỗ trợ của tổ chức Quỹ nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF) vào năm 1982, tỷ lệ người dân nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh từ 10% năm 1982) tăng lên gần 90% (2019), 51% sử dụng nước đạt QCVN02:2009/BYT. 44% dân số nông thôn (28,5 triệu người) được cấp nước từ các công trình cấp nước tập trung, 56% dân số nông thôn (36,3 triệu người), sử dụng công trình cấp nước nhỏ lẻ hộ gia đình.

Năm 2016, Chính phủ đã ban hành Quyết định 1566/QĐ-CP phê duyệt "Chương trình Quốc gia bảo đảm cấp nước an toàn giai đoạn 2016 – 2025". Để thực hiện Quyết định 1566, Chính phủ và các Bộ ngành, địa phương đã ban hành một số chính sách để chỉ đạo, thực hiện chương trình nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư của nhà nước và đóng góp của nhân dân. Tuy nhiên, theo báo cáo của Tổ chức UNICEF và các Bộ, ngành Việt Nam đã rà soát và phân tích những rào cản về các chính sách đã chỉ rõ: Chính sách xây dựng chưa được phù hợp với điều kiện thực tế và chưa dựa trên số liệu của Bộ Chỉ số Theo dõi – Đánh giá, chưa có chương trình về xử lý, trữ nước hộ gia đình phù hợp với giá thành phù hợp cho người nông dân nông thôn. Chính sách chưa cụ thể cho vùng miền. Thiếu sự hướng dẫn về duy trì bền vững các công trình cấp nước tập trung nông thôn hoặc quy định tính bền vững an toàn về dịch vụ, bao gồm khả năng chống chịu với biến đổi khí hậu, trách nhiệm giữa người sử dụng, nhà cung cấp dịch vụ và chính quyền chưa cụ thể...

Cùng với đó, một số cơ chế chính sách còn chậm ban hành, thiếu đồng bộ, chưa phù hợp với tính chất đặc thù của lĩnh vực cấp nước nông thôn, đặc biệt là các cơ chế, chính sách đầu tư, hỗ trợ đầu tư cho các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, bãi ngang, ven biển, hải đảo, vùng khan hiếm, khó khăn về nguồn nước, vùng thường xuyên bị ảnh hưởng thiên tai, ô nhiễm nguồn nước.

Ngoài ra, nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước giảm dần, nguồn lực huy động từ các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp còn hạn chế, mức tín dụng ưu đãi cho hộ gia đình vay vốn đầu tư xây dựng công trình nước sạch, vệ sinh còn thấp, chưa phù hợp... Số công trình cấp nước tập trung hư hỏng, kém hiệu quả chiếm tỷ lệ khá cao (31,6%); các công trình đang hoạt động tiềm ẩn nhiều yếu tố chưa bền vững do tác động của thiên tai, biến đổi khí hậu.

Hiện nay, theo thống kê cả nước vẫn còn hơn 31 triệu người dân nông thôn chưa được sử dụng nước sạch đạt quy chuẩn. Trong khi đó, tại một số nơi ở các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào DTTS, miền núi, vùng khan hiếm, khó khăn về nguồn nước, tỷ lệ người dân sử dụng nước sạch đạt quy chuẩn thấp hơn nhiều so với mức trung bình của cả nước, cụ thể: vùng miền núi phía Bắc đạt 31%, vùng Tây Nguyên đạt 26,6% so với mức trung bình 51% của cả nước.

z4372567795454_418aae27e857d546d6b7bfb158249feb.jpg
Niềm vui của bà con dân tộc vùng sâu vùng xa khi nước sạch về bản

Mong chờ trái ngọt …

Để tiếp tục phát huy thành tựu đã đạt được, khắc phục các tồn tại, hạn chế trong thời gian qua, đồng thời chủ động vượt qua các khó khăn, thách thức trong giai đoạn tới, cùng với việc triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021-2025, hiện nay, các Bộ, Ngành, địa phương đang nỗ lực tập trung triển khai Đề án cấp nước sạch nông thôn giai đoạn 2021-2025 với mục tiêu tăng tỷ lệ người dân nông thôn được tiếp cận với nước sạch một cách bền vững, đặc biệt là người dân tại các vùng khan hiếm, khó khăn về nguồn nước, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng bãi ngang, ven biển, biên giới, hải đảo, vùng thường xuyên bị ảnh hưởng thiên tai, hạn hán, xâm nhập mặn, ô nhiễm nguồn nước.

Đặc biệt, Đề án đặt ra mục tiêu cụ thể đến năm 2025 có 60% dân số nông thôn được tiếp cận bền vững với nước sạch đạt quy chuẩn với số lượng tối thiểu 60 lít/người/ngày; nâng tỷ lệ người dân nông thôn được sử dụng nước sạch từ công trình cấp nước tập trung lên 51%.

z4372567796272_644c03308ad793b08d3e75c15c11ba08.jpg
Hồ nước tập trung vùng biên giới Cao Bằng, đã cứu giúp người dân vào những tháng mùa khô hạn

Theo Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Trần Thanh Nam, triển khai Đề án cấp nước sạch nông thôn giai đoạn 2021-2025 thể hiện sự quyết tâm vào cuộc rất lớn của Đảng, Chính phủ với mong muốn tất cả người dân đặc biệt là người dân ở những vùng dân tộc miền núi, khó khăn sẽ được hưởng nhiều hỗ trợ của Nhà nước. Điển hình như, Nhà nước sẽ đầu tư xây dựng các công trình kết nối, tạo nguồn, dẫn nguồn cấp nước sinh hoạt ổn định, kết hợp sử dụng nguồn nước từ các hệ thống công trình thủy lợi phục vụ đa mục tiêu để xây dựng các công trình cấp nước tập trung cho các vùng thường xuyên bị ảnh hưởng thiên tai, hạn hán, xâm nhập mặn, lũ, ngập lút, úng, ô nhiễm nguồn nước.

Nhà nước cũng đầu tư xây dựng các công trình cấp nước đặc thù cho các vùng khó khăn, khan hiếm về nguồn nước, vùng có địa hình, địa chất phức tạp đảm bảo cấp nước sinh hoạt cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng bãi ngang, ven biển, biên giới, hải đảo; Sửa chữa, nâng cấp, cải tạo các công trình cấp nước hiện có đáp ứng yêu cầu chất lượng nước, nhu cầu phát triển kinh tế xã hội, đảm bảo ứng phó thiên tai, thích ứng biến đổi khí hậu.

Đồng thời Nhà nước thực hiện giao kế hoạch đầu tư, cung cấp dịch vụ cấp nước sạch nông thôn tại các vùng thuận lợi và đặt hàng, giao nhiệm vụ tại các vùng khó khăn, khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo.

Đối với các hộ gia đình, Thứ trưởng Trần Thanh Nam cho biết, Nhà nước hỗ trợ đầu tư xây dựng các mô hình thu, xử lý, trữ nước an toàn hộ gia đình, cung cấp các thiết bị xử lý nước hộ gia đình đảm bảo chất lượng tại các khu vực chưa thể đầu tư cấp nước tập trung. Các địa phương được thực hiện chương trình vay vốn ưu đãi xây dựng công trình nước sạch và vệ sinh nông thôn của các tổ chức tín dụng; huy động các nguồn lực xã hội hỗ trợ đầu tư mô hình cấp nước quy mô hộ gia đình. Đồng thời các địa phương là đơn vị trực tiếp thực hiện kiểm tra, giám sát chất lượng nước tại các công trình cấp nước quy mô hộ gia đình.

Bên cạnh đó, Đề án cũng giúp hỗ trợ phát triển thị trường cung ứng thiết bị xử lý nước đơn giản, phù hợp với khả năng chi trả của người dân. Ưu tiên hỗ trợ về tài chính, kỹ thuật, đầu tư xây dựng, cung cấp thiết bị cho xử lý và trữ nước an toàn hộ gia đình đối với khu vực khó khăn, gia đình chính sách, và đối tượng dễ bị tổn thương.

Đặc biệt, từ các nguồn vốn cho vay nước sạch và vệ sinh môi trường, nhiều công trình đưa nước sinh hoạt về cho người dân vùng khó khăn đã được thực hiện, đáp ứng được nhu cầu của nhiều người dân đồng bào thiểu số. Bà con cũng đã nhận thức rất rõ vai trò quan trọng của nước sạch; phối hợp với cơ quan chức năng bảo vệ nguồn nước.

Bài liên quan
  • Mường Tè (Lai Châu): Giải pháp đưa nước sạch về với đồng bào dân tộc thiểu số
    (TN&MT) - Mường Tè là một trong những huyện vùng cao có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) sinh sống ở Lai Châu. Trước đây, người dân luôn phải sống trong cảnh thiếu nước sinh hoạt. Từ khi có các chương trình mục tiêu quốc gia, chương trình 30a, 135, nông thôn mới… của Nhà nước, đồng bào DTTS đã có nước sạch, hợp vệ sinh sử dụng trong sinh hoạt mỗi ngày. An ninh nguồn nước được đảm bảo.

(0) Bình luận
Nổi bật
Trượt lở đất đá: Hiểu để ứng phó kịp thời
(TN&MT) - Những năm gần đây, trượt lở đất đá là một trong số các dạng tai biến địa chất xảy ra với tần suất khá cao, mức độ trầm trọng và trên diện ngày càng rộng, gây nên nhiều thiệt hại về người và cơ sở vật chất cho cộng đồng. Chính vì vậy, người dân cũng như các cấp chính quyền cần có hiểu biết đầy đủ về hiện trạng, nguyên nhân, cũng như cơ chế và quá trình hình thành các loại trượt lở đất đá cùng với các dấu hiệu nhận biết và cách phòng tránh.
Đừng bỏ lỡ
  • Sắc xanh xứ đạo xã Phú Sơn
    Bà con giáo xứ tại xã Phú Sơn, thị xã Nghi Sơn (Thanh Hóa) luôn nêu cao phương châm sống “tốt đời đẹp đạo”, tự giác nâng cao ý thức bảo vệ môi trường, giữ gìn vệ sinh đường làng, ngõ xóm.
  • Theo chân cán bộ kiểm lâm “cắm bản”
    (TN&MT) - Dọc theo những con đường đến với xã vùng biên Phiêng Pằn của huyện Mai Sơn (Sơn La), trên những quả đồi bạc màu, hoang hóa ngày nào, đang xanh lên màu xanh của những cánh rừng. Trong thành công ấy, có bóng dáng, sự nỗ lực quên mình của người kiểm lâm viên địa bàn ngày ngày “bám đất, bám rừng”.
  • Cây dược liệu- Cây xóa nghèo bền vững ở các huyện miền Núi
    Cùng với chính sách xóa đói, giảm nghèo của Chính phủ, trong những năm gần đây, Tỉnh ủy, UBND tỉnh Thanh Hóa đã đưa ra nhiều chương trình xóa đói, giảm nghèo cho bà con các huyện miền Núi. Trong những chương trình đó thì phát triển nguồn lực tại chỗ là một trong những thế mạnh của người dân như: Phát triển và bảo vệ rừng, trồng cây lâm nghiệp, nông nghiệp, trồng dược liệu… Nhờ đó, người dân vùng sâu, vùng xa Xứ Thanh đã thoát nghèo bền vững.
  • Lễ cầu mưa của dân tộc Hà Nhì
    (TN&MT) - Hàng năm từ 15/5 - 15/7 (âm lịch) người Hà Nhì ở Mường Nhé (Điện Biên) lại chuẩn bị cho Tết mùa mưa (Dế khù chà – theo tiếng Hà Nhì). Đây là dịp để người Hà Nhì cầu mong cho mưa thuận gió hòa, vụ mùa tốt tươi, con cháu họ được sum vầy hạnh phúc. Ngoài ý nghĩa tín ngưỡng tâm linh thì đó còn là thời điểm họ cảm tạ thần mưa đã dâng nước suối đủ tưới mát cây cối, ruộng đồng, không làm lũ ống, lũ quét... Cảm tạ đất trời đã che chở họ trong cả một năm qua.
  • Người Mạ giữ rừng vì giá trị truyền thống
    (TN&MT) - Nghề giữ rừng tại Vườn Quốc gia Tà Đùng (xã Đắk Som, huyện Đắk G’long) đã mang lại nguồn thu nhập cho các hộ đồng bào dân tộc thiểu số người Mạ từ khoản kinh phí từ dịch vụ môi trường rừng. Với đại đa số các hộ dân tại đây, giữ rừng không chỉ mang lại thu nhập mà còn là trách nhiệm với tổ tiên và các thế hệ mai sau bởi nghề rừng được xem như một nghề truyền thống.
  • Đồng bào Cơ Tu giữ rừng
    (TN&MT) - Ngàn đời nay, đồng bào Cơ Tu ở huyện Tây Giang (Quảng Nam) xem rừng như người Mẹ vĩ đại che chở mang lại sự sống cho dân làng. Chính từ sự ngưỡng vọng, tôn vinh, trân trọng ấy nên người dân Tây Giang luôn yêu quý, bảo vệ rừng.
  • Chính sách cấp nước sạch cho bà con dân tộc thiểu số
    (TN&MT) - Hiện nay, nhiều thôn bản vùng đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) và miền núi, điều kiện cơ sở hạ tầng còn rất khó khăn và thiếu thốn, đặc biệt là thiếu nguồn nước sạch cho sinh hoạt của người dân. Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021-2025 đã đưa vấn đề hỗ trợ nước sinh hoạt bao gồm hỗ trợ nước sinh hoạt phân tán và hỗ trợ nước sinh hoạt tập trung là một trong những trọng điểm.
  • Kinh nghiệm giữ rừng của người Tày Lạng Sơn
    Thôn Đông Đằng, xã Bắc Quỳnh (Bắc Sơn, Lạng Sơn) nằm cạnh một rừng nghiến cổ thụ xanh mướt. Bao đời nay, bằng tấm lòng yêu rừng, giữ rừng của người dân nơi đây, hàng trăm gốc nghiến quý giá vẫn giữ nguyên vẹn, sừng sững như minh chứng sống cho những thăng trầm, đổi thay trên vùng đất cách mạng Bắc Sơn.
  • Đề xuất chính sách, pháp luật bảo vệ quyền và lợi ích của đồng bào dân tộc thiểu số với vấn đề bảo vệ môi trường ở Việt Nam
    (TN&MT) - Trong những năm qua, các dự án khai thác mỏ triển khai trên khắp cả nước đã có những tác động đến đời sống dân sinh. Bên cạnh những tác động tích cực như giải quyết việc làm, mở đường giao thông, mang đến ánh sáng, cung cấp điện cho bản làng xa xôi…, những dự án này cũng kéo theo nhiều tác động tiêu cực đối với đồng bào, làm xáo trộn cuộc sống của họ và gây ảnh hưởng đến môi trường.
  • Đắk Nông: Nỗ lực đưa nước sạch về với đồng bào vùng cao
    Trong những năm qua, mặc dù còn gặp nhiều khó khăn dẫn đến việc cấp nước sạch còn nhiều hạn chế, nhưng với sự quyết tâm của chính quyền địa phương nên rất nhiều buôn làng vùng sâu, vùng xa thuộc một số địa phương của tỉnh Đắk Nông đã có nước sạch về đến các hộ đồng bào dân tộc thiểu số.
  • Hà Giang: Nỗ lực đưa nước sạch về cho đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi
    (TN&MT) - Giải quyết nước sinh hoạt cho vùng miền núi nói chung, đặc biệt là cho đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng là vấn đề mà Đảng và Nhà nước hết sức quan tâm trong suốt thời gian qua. Trong nỗ lực “xóa khát” đó, có dấu ấn rất lớn của ngành TN&MT thông qua việc thực hiện thành công nhiều dự án tìm kiếm nguồn nước ở trên núi cao, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, giải “cơn khát” nhiều đời cho đồng bào nơi đây.
  • Mường Tè (Lai Châu): Giải pháp đưa nước sạch về với đồng bào dân tộc thiểu số
    (TN&MT) - Mường Tè là một trong những huyện vùng cao có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) sinh sống ở Lai Châu. Trước đây, người dân luôn phải sống trong cảnh thiếu nước sinh hoạt. Từ khi có các chương trình mục tiêu quốc gia, chương trình 30a, 135, nông thôn mới… của Nhà nước, đồng bào DTTS đã có nước sạch, hợp vệ sinh sử dụng trong sinh hoạt mỗi ngày. An ninh nguồn nước được đảm bảo.
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO