Cao Bằng có hơn 89% người dân nông thôn được sử dụng nước sạch, hợp vệ sinh

Nguyễn Hùng - Xuân Vũ (thực hiện) | 19/05/2020, 14:17

(TN&MT) - Tỉnh Cao Bằng đã và đang triển khai nhiều giải pháp, góp phần làm thay đổi diện mạo nông thôn, hướng tới đảm bảo bền vững nước sạch vệ sinh môi trường tại các địa bàn vùng đồng bào dân tộc thiểu số vùng khó khăn. Phóng viên Báo Tài nguyên và Môi trường có cuộc trao đổi với ông Bế Nhật Thành, Giám đốc Trung tâm Nước sạch và Vệ sinh môi trường nông thôn tỉnh Cao Bằng xung quanh vấn đề này.

PV: Xin ông cho biết thực trạng công tác đầu tư, quản lý, sử dụng công trình nước sinh hoạt nông thôn trên địa bản tỉnh?

Ông Bế Nhật Thành:

 Những năm qua, tỉnh Cao Bằng đã và đang tập trung đầu tư xây dựng các công trình nước sạch và vệ sinh môi trường trên địa bàn nông thôn, góp phần nâng cao sức khỏe người dân, bảo vệ môi trường, thúc đẩy kinh tế - xã hội vùng nông thôn phát triển. Hiện nay, trên địa bàn nông thôn của tỉnh Cao Bằng có các loại hình cấp nước sinh hoạt nông thôn như: Cấp nước sinh hoạt tập trung (bao gồm các hệ dẫn nước sinh hoạt tự chảy, bơm dẫn, các bể, hồ chứa nước công cộng); các loại giếng đào, giếng khoan, bể, lu chứa nước; trong đó, có hơn 1.150 công trình cấp nước sinh hoạt tập trung. Được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, từ nhiều nguồn vốn khác nhau, các công trình cấp nước sinh hoạt nông thôn đã được đầu tư. Đến nay, toàn tỉnh Cao Bằng có hơn 89% dân cư nông thôn đã được hưởng nước sinh hoạt hợp vệ sinh từ các công trình này.

Do địa bàn miền núi hiểm trở, dân cư sống thưa thớt, nên việc đầu tư xây dựng công trình cấp nước cho toàn bộ các xóm trong một xã hoặc liên vùng còn nhiều khó khăn. Nếu muốn đầu tư phải dựa theo thực tế địa hình, hiện trạng nguồn nước và hiện trạng các nhà dân sinh sống để quyết định khảo sát, thiết kế và thi công công trình phù hợp.

Mặt khác, do đời sống kinh tế của người dân nông thôn còn khó khăn, nếu áp dụng vào kinh doanh giá nước thì người dân nông thôn khó có điều kiện để chi trả. Cùng với đó, các nhà đầu tư vẫn còn “băn khoăn” chưa dám đầu tư bởi khó thu phí và khả năng hoàn vốn phải mất thời gian dài. Vì vậy, các công trình cấp nước sinh hoạt nông thôn sau khi xây lắp hoàn thành đều phải giao cho chính quyền địa phương và người dân vùng hưởng lợi từ công trình tự quản lý, vận hành và khai thác sử dụng.

Ông Bế Nhật Thành, Giám đốc Trung tâm Nước sạch và Vệ sinh môi trường nông thôn tỉnh Cao Bằng 

PV: Quá trình quản lý, khai thác, sử dụng các công trình nước sinh hoạt nông thôn trên địa bàn tỉnh Cao Bằng còn tồn tại những hạn chế gì, thưa ông?

Ông Bế Nhật Thành:

 Đối với những hạn chế còn tồn tại trong quá trình quản lý, vận hành, khai thác sử dụng các công trình nước sinh hoạt nông thôn trên địa bàn tỉnh Cao Bằng một phần là ý thức quản lý, vận hành và khai thác công trình nước của người dân còn hạn chế, bởi muốn có nước hợp vệ sinh thì phải thiết kế có áp dụng các kỹ thuật cấp nước, những người dân thì gần như có công trình mới được tiếp xúc với các kỹ thuật này. Bên cạnh đó, tư tưởng người dân còn trông chờ, ỷ lại, chưa thực sự có ý thức trong việc bảo vệ, giữ gìn các công trình nước sạch.

Do đã giao cho chính quyền địa phương và người dân vùng hưởng lợi từ công trình tự quản lý, vận hành và khai thác sử dụng công trình nước sạch, tuy nhiên, một số nơi còn chưa thực sự làm tốt việc thu phí sử dụng nước để tạo nguồn quỹ để chi trả cho các việc như: Chi trả tiền cho cán bộ trong tổ quản lý vận hành và bảo dưỡng được xóm, đơn vị chọn giao quản lý, khai thác và bảo vệ; chi cho bảo dưỡng, duy tu và sửa chữa thường xuyên công trình; nguồn dự phòng mua vật tư, thiết bị thay thế, sửa chữa đường ống và các hạng mục khác của công trình... Không được bảo dưỡng, sửa chữa định kỳ thì những công trình này hoạt động kém hiệu quả, xuống cấp theo thời gian là điều tất yếu. Khi những công trình đã xuống cấp thì kinh phí sửa chữa là rất lớn, do đó điều kiện kinh tế của người dân nông thông không đáp ứng được việc sửa chữa lớn.

Người dân Cao Bằng đã được sử dụng nước sạch, hợp vệ sinh

PV: Để khắc phục những hạn chế còn tồn tại và nâng cao hiệu quả công tác đầu tư, quản lý, khai thác và sử dụng bền vững các công trình nước sinh hoạt nông thôn, tỉnh Cao Bằng cần tập trung triển những giải pháp chủ yếu nào?

Ông Bế Nhật Thành:

Để khắc phục những tồn tại, thời gian tới, tỉnh Cao Bằng tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến cho người dân vùng nông thôn hiểu rõ hơn nữa về tầm quan trọng của Tài nguyên nước đối với cuộc sống sinh hoạt, sản xuất. Hàng năm, tổ chức các lớp tập huấn kiến thức về quản lý sử dụng, khai thác và tài chính của các công trình nước sạch cho người dân nông thôn.

Đối với các địa phương có công trình nước sạch, cần chọn một người có ý thức trách nhiệm, kiến thức quản lý vận hành, thu phí sử dụng công trình nước sạch để đảm bảo công trình thường xuyên được bảo dưỡng, sửa chữa, thay thế các thiết bị hỏng hóc, xuống cấp.

PV: Trân trọng cảm ơn ông!

Theo số liệu từ Sở Y tế Cao Bằng, hiện nay, toàn tỉnh có khoảng 73% số hộ gia đình nông thôn có nhà tiêu, trong đó, 49,73% nhà tiêu hợp vệ sinh; 94,5% Trạm Y tế xã, phường có nước sạch và nhà tiêu hợp vệ sinh; 69,07% trường học có nước sạch và nhà tiêu hợp vệ sinh; 56,66% hộ chăn nuôi gia súc có chuồng trại hợp vệ sinh. Về cấp nước sinh hoạt nông thôn, toàn tỉnh có 866 công trình cấp nước tập trung, trong đó, 6,47% công trình hoạt động bền vững. 88% người dân nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh; 83,98% người nghèo được sử dụng nước hợp vệ sinh.

Bài liên quan

(0) Bình luận
Nổi bật
Đà Nẵng: Đề xuất nhiều ý tưởng về bảo đảm nguồn nước sinh hoạt
Ngày 27/9, Liên hiệp Các hội khoa học và kỹ thuật thành phố Đà Nẵng tổ chức hội nghị phổ biến kết quả nghiên cứu về nước sạch và các giải pháp xử lý nước sinh hoạt, biện pháp xử lý và rửa bồn chứa nước cho các hộ gia đình.
Đừng bỏ lỡ
  • Hải Dương: Sản xuất, cung cấp nước sạch gắn với chuyển đổi số, bảo vệ môi trường
    (TN&MT) - Xác định đổi mới công nghệ và chuyển đổi số là yếu tố “sống còn” của doanh nghiệp do vậy, những năm gần đây, Công ty Cổ phần Nước sạch và Vệ sinh nông thôn tỉnh Hải Dương đã tích cực áp dụng những thành tựu của khoa học công nghệ vào công tác sản xuất, cung cấp nước sạch sinh hoạt cho người dân, từ đó góp phần vào công tác bảo vệ tài nguyên và môi trường.
  • Cần Thơ quản lý hiệu quả tài nguyên nước: Thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển
    (TN&MT) - TP. Cần Thơ hiện đang tập trung triển khai thực hiện các biện pháp nhằm quản lý, bảo vệ hiệu quả nguồn tài nguyên nước trước tác động của biến đổi khí hậu và các hoạt động của con người, góp phần thúc đẩy các lĩnh vực kinh tế - xã hội của thành phố phát triển ngày càng bền vững.
  • Quảng Ngãi: Sử dụng nước hiệu quả, tiếp cận theo hướng tuần hoàn
    (TN&MT) - Biến đổi khí hậu (BĐKH) diễn ra ngày càng nghiêm trọng đang ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn tài nguyên nước mặt và nước ngầm ở Quảng Ngãi.
  • TP. Vinh (Nghệ An): Tất cả các mẫu nước sạch đều đạt yêu cầu
    Mới đây, vào ngày 06/9/2023, Trung tâm Kiểm soát bệnh tật tỉnh Nghệ An đã có báo cáo về kết quả giám sát chất lượng nước sạch sử dụng vào mục đích sinh hoạt tại các nhà máy nước cung cấp cho thành phố Vinh và các vùng phụ cận. Theo đó, tất cả 10/10 mẫu nước sạch đều đạt QCĐP 01:2021/NA.
  • Quảng Ngãi: Nhiều bất cập trong đầu tư công trình nước sạch
    Bằng nhiều nguồn kinh phí khác nhau, những năm qua tỉnh Quảng Ngãi đầu tư hàng trăm công trình nước sạch, mỗi công trình có kinh phí đầu ít nhất là 500 triệu đồng, thậm chí có những công trình hơn 10 tỷ đồng. Thế nhưng, vì nhiều lý do có hơn 90% các công trình cấp nước ở nông thôn không hoạt động hoặc hoạt động kém hiệu quả gây lãng phí.
  • Mù Cang Chải (Yên Bái): Nhanh chóng khắc phục kênh mương thuỷ lợi sau mưa lũ
    (TN&MT) – Sau khi bị ảnh hưởng do mưa lũ gây ra vào đầu tháng 8/2023, huyện Mù Cang Chải (Yên Bái) đã tích cực phối hợp với các đơn vị tu sửa lại hệ thống kênh mương thuỷ lợi đảm bảo đủ nước cho bà con sản xuất vụ mùa.
  • Ninh Thuận: Thực hiện vận hành các hồ chứa trong mùa mưa lũ năm 2023
    (TN&MT) - Theo nhận định xu thế khí tượng thủy văn mùa mưa, bão, lũ năm 2023 của Trung tâm dự báo Khí tượng thủy văn quốc gia, trên các lưu vực sông cả nước sẽ có những diễn biến hết sức phức tạp, phạm vi ảnh hưởng do mưa bão rộng, đặc biệt là khu vực Trung Bộ, Tây Nguyên và Nam Bộ, cảnh báo nguy cơ lũ lớn, lũ quét và sạt lở đất tại các tỉnh miền Trung trong thời gian từ tháng 9 đến tháng 11.
  • Để những mạch nguồn chảy mãi
    Việt Nam được dệt thêu bởi 3.450 sông, suối - tạo nên sự đa dạng cảnh sắc, con người và văn hóa độc đáo. Thế nhưng, sông ngòi - những mạch sống của các hệ sinh thái đang bị đầu độc bởi con người. Ngày nay, khó có thể kiếm được con sông nào giữ được một vài nét nguyên sơ.
  • Lạng Sơn: Đưa nước sạch đến với người dân vùng khó khăn
    (TN&MT) - Là tỉnh miền núi có mạng lưới sông suối, ao, hồ khá đa dạng với hơn 270 hồ chứa, trên 970 đập dâng các loại, tỉnh Lạng Sơn đã và đang triển khai nhiều giải pháp đảm bảo cấp nước an toàn cho khu vực nông thôn, góp phần tiết kiệm, giảm tỷ lệ thất thoát nước, bảo vệ môi trường sinh thái, nâng cao chất lượng cuộc sống nhân dân.
  • Đà Nẵng và Quảng Nam thống nhất đề nghị thành lập tổ chức quản lý lưu vực sông Vu Gia - Thu Bồn
    Sáng 29/8, UBDN TP. Đà Nẵng và UBND tỉnh Quảng Nam đồng tổ chức Hội thảo ký kết các văn bản làm cơ sở tiếp tục thử nghiệm ban điều phối quản lý tổng hợp tài nguyên nước lưu vực sông Vu Gia – Thu Bồn và vùng bờ Quảng Nam – Đà Nẵng.
  • Phù Yên (Sơn La): Tăng cường quản lý tài nguyên nước
    (TN&MT) - UBND huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La vừa ban hành Công văn số 1284/UBND-TNMT, về tăng cường công tác quản lý nhà nước về tài nguyên nước trên địa bàn huyện.
  • Luật hóa quy định bảo vệ lòng, bờ, bãi sông
    (TN&MT) - Để nâng cao vai trò của cơ quan quản lý tài nguyên nước trong việc thống nhất các hoạt động bảo vệ, quản lý tài nguyên lưu vực sông hiện nay, đồng thời tăng cường chức năng, tính hiệu lực, hiệu quả về bảo vệ lòng, bờ, bãi sông, phù hợp với yêu cầu thực tế, Dự thảo Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) đã sửa đổi, bổ sung và luật hóa các quy định liên quan đến bảo vệ lòng, bờ, bãi sông.
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO