Góp ý vào Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội XV, Hòa thượng Thích Bảo Nghiêm – Đại biểu Quốc hội TP. Hà Nội đề nghị cần rà soát, hoàn thiện quy định về đất tôn giáo để bảo đảm quy định thống nhất giữa dự thảo Luật và Luật Tín ngưỡng tôn giáo, tránh phát sinh các khái niệm mới, thực hiện không thống nhất, có thể sẽ phát sinh tranh chấp, khiếu nại.
Đại biểu đánh giá cao quá trình xây dựng, tiếp thu, giải trình của Chính phủ và cơ quan soạn thảo (Bộ Tài nguyên và Môi trường). Theo Đại biểu, Dự thảo luật trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 5 đã được tiếp thu nhiều ý kiến của nhân dân, các chuyên gia, nhà khoa học, các đại biểu Quốc hội phát biểu tại kỳ họp thứ 4 và Hội nghị đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách.
Về nội dung về đất tôn giáo trong dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) quy định "đất tôn giáo gồm đất xây dựng cơ sở thờ tự, trụ sở của tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc và các công trình tôn giáo phù hợp khác", tuy nhiên khái niệm này cần phải được rà soát lại, làm rõ 2 vấn đề như sau: Thứ nhất, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 và dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) lần này đều chưa có khái niệm về cơ sở thờ tự, do vậy sẽ không có căn cứ pháp lý để xác định đất tôn giáo theo cách tiếp cận là đất xây dựng cơ sở thờ tự quy định tại dự thảo Luật Đất đai.
Do vậy, Đại biểu đề nghị chỉnh lý lại quy định này theo hướng bỏ khái niệm mới này để tránh việc tranh cãi, không thống nhất giữa pháp luật về đất đai và pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo.
Thứ hai, tại khoản 14 Điều 2 Luật Tín ngưỡng tôn giáo năm 2016 quy định: "cơ sở tôn giáo gồm chùa, nhà thờ, nhà nguyện, thánh thất, thánh đường, trụ sở của tổ chức tôn giáo, cơ sở hợp pháp khác của tổ chức tôn giáo”. Với khái niệm này, vấn đề đặt ra là đất xây dựng cơ sở tôn giáo, đồng thời, cần đánh giá cách tiếp cận như định nghĩa khái niệm “đất tôn giáo” quy định trong dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) đã bao quát với đất xây dựng cơ sở tôn giáo hay chưa?
Đại biểu đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo cần rà soát, hoàn thiện nội dung này để bảo đảm quy định thống nhất giữa dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) lần này và Luật Tín ngưỡng tôn giáo, tránh phát sinh các khái niệm mới. Bên cạnh đó, việc không thống nhất trong cách hiểu về đất tôn giáo sẽ dẫn đến việc thực hiện không thống nhất, có thể sẽ phát sinh tranh chấp, khiếu nại. Đây là vấn đề cần tránh khi quy định nội hàm các loại đất, đặc biệt là đất tín ngưỡng, tôn giáo. Do vậy, cần thống nhất cách nhận định giữa 2 loại đất, đó là đất tín ngưỡng và đất tôn giáo.
Một vấn đề khác trong Dự thảo Luật là quy định loại đất phải phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, quy hoạch xây dựng đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt. Trong quy định về đất tôn giao cũng có quy định: “Trường hợp Nhà nước thu hồi đất tôn giáo quy định tại khoản 2 điều này thì được bố trí địa điểm mới phù hợp với quỹ đất của địa phương vào hoạt động tôn giáo của các tín đồ”.
Đại biểu bày tỏ sự nhất trí với quy định này nhưng để đảm bảo thống nhất trong cách hiểu và thực hiện để làm rõ thế nào là hoạt động tôn giáo. Vì hiện nay, khoản 11 Điều 2 Luật Tín ngưỡng, tôn giáo quy định “hoạt động tôn giáo là hoạt động truyền bá tôn giáo, sinh hoạt tôn giáo và quản lý tổ chức của tôn giáo”.
Cuối cùng, tại khoản 2 Điều 82 dự thảo Luật Đất đai quy định về các trường hợp thu hồi đất, trong đó có trường hợp người sử dụng đất không còn nhu cầu sử dụng đất và có đơn tự nguyện trả lại đất. Ngoài quy định tại Điều 82 trong dự thảo không còn một quy định nào khác đề cập đến nội dung này. Đại biểu cho rằng, bên cạnh quy định về việc thu hồi đất do tự nguyện trả lại đất cần tiếp tục nghiên cứu để bổ sung một số nội dung khác như về cơ chế, chính sách và các vấn đề liên quan đến Nhà nước thu hồi đất khi người sử dụng đất tự nguyện trả lại đất để các chính sách trong dự thảo luật, trong đó có việc thu hồi đất khi người sử dụng đất tự nguyện trả lại đất đi vào thực tế cuộc sống.
Điều 206. Đất tôn giáo, Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) quy định
1. Đất tôn giáo gồm đất xây dựng cơ sở thờ tự, trụ sở của tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc và các công trình tôn giáo khác.
2. Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất đối với đất xây dựng cơ sở thờ tự, trụ sở của tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc.
3. Nhà nước cho thuê đất thu tiền thuê đất hàng năm đối với tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc sử dụng đất không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.
4. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh căn cứ nhu cầu thực tế về hoạt động tôn giáo và khả năng quỹ đất của địa phương để quyết định diện tích đất giao cho tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc.
5. Việc sử dụng đất tôn giáo kết hợp với thương mại dịch vụ phải đảm bảo các yêu cầu quy định tại khoản 2 Điều 212 của Luật này.
6. Trường hợp Nhà nước thu hồi đất tôn giáo quy định tại khoản 2 Điều này thì được bố trí địa điểm mới phù hợp với quỹ đất của địa phương và hoạt động tôn giáo của các tín đồ.