Cần bổ sung các quy định việc quản lý, sử dụng đất các công trình thủy điện

Trường Giang | 08/10/2021, 07:50

(TN&MT) - Mặc dù thủy điện mang lại nhiều hiệu quả to lớn, tuy nhiên việc xây dựng các công trình thủy điện, việc sử dụng đất cho thủy điện cũng có tác động bất lợi đến kinh tế, xã hội, môi trường.

Viện Nghiên cứu quản lý đất đai, Tổng cục Quản lý đất đai, Bộ Tài nguyên và Môi trường vừa thực hiện xong đề tài nghiên cứu cấp Bộ về “Nghiên cứu, đánh giá tác động của việc quản lý, sử dụng đất các công trình thủy điện đến kinh tế, xã hội, môi trường và đề xuất hoàn thiện quy định pháp luật về quản lý, sử dụng đất đối với công trình thủy điện”.

Theo kết quả nghiên cứu, thủy điện mang lại nhiều hiệu quả to lớn, nhất là về kinh tế, thể hiện qua các ưu thế: cung cấp nguồn điện năng đến 40% nhu cầu điện năng của toàn quốc hiện nay; là dạng năng lượng có giá thành rẻ nên có khả năng thúc đẩy phát triển kinh tế; việc sử dụng đất thủy điện tạo nên các hồ chứa nước ngoài vai trò sản xuất điện còn có chức năng góp phần điều tiết ngăn lũ, giảm lũ, cung cấp nước cho sản xuất và sinh hoạt và đời sống của dân cư vùng hạ du…

Thủy điện cung cấp nguồn điện năng đến 40% nhu cầu điện năng của toàn quốc.

Tuy nhiên, việc xây dựng các công trình thủy điện, việc sử dụng đất cho thủy điện cũng có tác động bất lợi đến kinh tế, xã hội, môi trường: Do phải thu hồi đất và chuyển mục đích sang thủy điện đã làm mất đất sản xuất nông nghiệp, ảnh hưởng đến kinh tế và đời sống của dân cư trong vùng; làm giảm diện tích rừng đầu nguồn, làm giảm các chức năng sinh thái quan trọng nhất của rừng là điều hoà khí hậu, giữ và điều tiết nguồn nước, bảo vệ đất, bảo vệ và cải thiện môi trường sống; làm thay đổi dòng chảy và làm cho dòng chảy phía hạ lưu bị cạn kiệt, ảnh hưởng tiêu cực đến sản xuất và đời sống; làm gia tăng lũ lụt nếu quản lý, vận hành các hồ thủy điện tùy tiện, không đúng quy trình…

Tác động tích cực và tiêu cực của việc quản lý, sử dụng đất các công trình thủy điện đến kinh tế, xã hội, môi trường là hai mặt của một vấn đề, luôn luôn song hành và mang tính tất yếu. Kết quả nghiên cứu đề tài đã chỉ ra những vấn đề cần giải quyết để góp phần bảo đảm sự hài hòa giữa phát triển thủy điện với tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường; phát huy các tác động tích cực, giảm thiểu các tác động tiêu cực, nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng đất thủy điện và phát triển bền vững.

Theo đó, Đề tài đề xuất được một số nội dung về chính sách, pháp luật đất đai có liên quan đến quản lý, sử dụng đất các công trình thủy điện, gồm: Xác định, thẩm định nhu cầu sử dụng đất thủy điện trong quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; thu hồi đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất để thực hiện dự án thủy điện, giao đất, cho thuê đất sau khi thủy điện đi vào vận hành; bổ sung một số yêu cầu về việc lập và thực hiện dự án tái định cư cho dự án thủy điện; bổ sung một số quy định về cho thuê, chế độ sử dụng đối với đất có mặt nước chuyên dùng là hồ thủy điện; bổ sung quy định về việc sử dụng đất bán ngập lòng hồ thủy điện, đất hành lang bảo vệ công trình thủy điện.

Về cơ chế quản lý, sử dụng đất các công trình thủy điện, cơ chế vận hành, điều tiết nguồn nước lòng hồ thủy điện mang tính đặc thù cho các vùng kinh tế - xã hội: vùng Trung Du và Miền núi Bắc bộ, vùng Bắc Trung bộ và Duyên hải Miền Trung, vùng Tây Nguyên.

Đề xuất một số giải pháp giảm thiểu các tác động tiêu cực của việc quản lý, sử dụng đất các công trình thủy điện đến kinh tế, xã hội, môi trường: Giải pháp về tổ chức thực hiện một số nội dung về quản lý nhà nước đối với đất các công trình thủy điện; Xây dựng và thực hiện cơ chế phối hợp giữa các ngành, các cấp trong quản lý, sử dụng đất và vận hành hồ chứa các công trình thủy điện; Giải pháp về tăng cường kiểm tra, giám sát việc quản lý, sử dụng đất các công trình thủy điện...

Để thực hiện tốt hơn, có hiệu quả hơn việc quản lý, sử dụng đất các công trình thủy điện, qua các kết quả nghiên cứu Đề tài, nhóm nghiên cứu đề nghị Tổng cục Quản lý đất đai, Bộ Tài nguyên và Môi trường tham khảo, sử dụng Bộ tiêu chí đánh giá tác động của việc quản lý, sử dụng đất các công trình thủy điện đến kinh tế, xã hội, môi trường để tiếp tục thử nghiệm, hoàn thiện và ban hành bộ tiêu chí chung áp dụng cho việc đánh giá tác động của chính sách, pháp luật đất đai.

Cần điều tra tổng thể về thu hồi đất, bồi thường, tái định cư đối với các dự án thủy điện trên phạm vi toàn quốc nhằm khắc phục những mặt hạn chế, yếu kém.

Sử dụng các đề xuất của đề tài để xây dựng, bổ sung các quy định pháp luật đất đai có liên quan đến việc quản lý, sử dụng đất các công trình thủy điện; tiếp tục triển khai nghiên cứu bổ sung một số nội dung có liên quan như trình tự và nội dung cho thuê đất có mặt nước chuyên dùng là hồ thủy điện để sử dụng kết hợp vào các mục đích khác.

Về phương diện quản lý, sử dụng đất đai, đề nghị Bộ Tài nguyên và Môi trường, Tổng cục Quản lý đất đai: Xây dựng và triển khai thực hiện chương trình kiểm kê chuyên đề về quản lý, sử dụng đất thủy điện; qua đó đánh giá được đầy đủ về thực trạng quản lý, sử dụng đất thủy điện trên phạm vi cả nước và ở từng địa phương, nhất là thực trạng sử dụng đất có mặt nước chuyên dùng là hồ thủy điện vào các mục đích; xây dựng cơ sở dữ liệu về đất thủy điện… làm cơ sở cho việc quản lý đất thủy điện lâu dài; có kế hoạch khai thác sử dụng có hiệu quả đất có mặt nước chuyên dùng hồ thủy điện.

Triển khai thực hiện việc điều tra tổng thể về thu hồi đất, bồi thường, tái định cư đối với các dự án thủy điện trên phạm vi toàn quốc nhằm có được các tài liệu, số liệu đánh giá đầy đủ tình hình, kết quả, thực trạng công tác tái định cư cho các công trình thủy điện; làm cơ sở cho việc phát huy những kết quả đã đạt được, khắc phục những mặt hạn chế, yếu kém trong hoạt động tái định cư; bảo đảm ổn định và cải thiện đời sống cho người dân tái định cư; xây dựng, hoàn thiện chính sách, pháp luật đất đai cũng như chính sách, pháp luật khác về di dân, tái định cư.

Xây dựng và ban hành định mức sử dụng đất để áp dụng cho quy hoạch sử dụng đất đối với đất phát triển thủy điện; quản lý sử dụng đất đối với các công trình thủy điện.

Đề nghị các cơ quan nhà nước có thẩm quyền về quản lý, sử dụng tài nguyên nước, cấp phép sử dụng nguồn nước và quản lý thủy điện thực hiện việc rà soát lại quy trình vận hành các hồ chứa thủy điện. Đối với các hồ chứa có quy trình chưa phù hợp, còn nhiều ảnh hưởng không tốt đến kinh tế, xã hội, môi trường thì cần xem xét, điều chỉnh quy trình vận hành cho phù hợp, không chỉ vì mục tiêu chính là phát điện mà cần phải đáp ứng các yêu cầu phát triển bền vững.

Bài liên quan
  • Bà con vùng đồng bào DTTS huyện Ba Chẽ sử dụng hiệu quả tài nguyên đất
    (TN&MT) - Huyện miền núi vùng cao Ba Chẽ, tỉnh Quảng Ninh đang từng bước nhân rộng diện tích trồng rừng gỗ lớn. Qua đó tạo nền tảng phát triển lâm nghiệp bền vững, mang lại lợi ích kinh tế cao cho người dân, nhất là đối với vùng đồng bào DTTS, góp phần bảo vệ môi trường, ứng phó biến đổi khí hậu trên địa bàn.

(0) Bình luận
Nổi bật
Bá Thước (Thanh Hóa): Nhiều điển hình sản xuất kinh doanh giỏi
Trong những năm qua, nhờ có nhiều chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế ở các huyện miền Núi, vùng sâu, vùng xa đã có nhiều khởi sắc. Đặc biệt, chỉ trong 2 năm 2021- 2023, huyện Bá Thước có 5 tập thể và 21 cá nhân được Chủ tịch UBND huyện tặng Giấy khen đạt thành tích xuất sắc trong phong trào nông dân thi đua SXKD giỏi cấp huyện, 30 cá nhân và 4 tập thể được Hội Nông dân khen thưởng.
Đừng bỏ lỡ
  • Bắc Quang – Hà Giang: Đưa nhiều chương trình vì mục tiêu giảm nghèo tới gần người dân
    Hàng loạt chương trình mục tiêu giảm nghèo của Trung ương và tỉnh Hà Giang đang được huyện Bắc Quang tích cực triển khai sâu rộng tới người dân thông qua các kế hoạch, đề án, dự án cụ thể và có kiểm tra, giám sát nghiêm túc, nhờ đó bước đầu đã giải quyết việc làm, tạo sinh kế bền vững cho người dân, nhất là đồng bào các dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa của huyện Bắc Quang.
  • Phú Yên: Tìm giải pháp cho những công trình nước sạch vùng nông thôn, vùng đồng bào DTTS
    (TN&MT) - Phú Yên là một trong số những địa phương chịu ảnh hưởng nặng nề của hạn hán. Người dân nhiều địa phương trong tỉnh, đặc biệt là khu vực miền núi thường xuyên thiếu nước sinh hoạt. Tuy nhiên, nghịch lý là hiện nay hàng chục công trình cấp nước sinh hoạt nông thôn tập trung do Nhà nước đầu tư xây dựng đã bị bỏ hoang từ nhiều năm qua.
  • Nuôi dê thương phẩm giúp nhiều hộ dân đổi đời
    Thời gian qua, việc chia sẻ kinh nghiệm nuôi dê thương phẩm và liên kết trong chăn nuôi, bao tiêu sản phẩm đang từng bước đem lại hiệu quả kinh tế lớn, đồng thời mở ra hướng đi mới cho hàng chục hộ dân ở huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang. Theo số liệu báo cáo, ước tính tổng đàn Dê thương phẩm của huyện đến hết tháng 6/2023 đạt khoảng 10.000 con.
  • Mường Lát (Thanh Hóa): Cuộc sống mới ở khu tái định cư
    Bản Ón, xã Tam Chung, huyện Mường Lát (Thanh Hóa) có 100% là đồng bào dân tộc Mông sinh sống. Đa số người dân trong bản thuộc diện hộ nghèo và cận nghèo. Phần lớn các hộ dân dựng nhà bên những sườn núi cheo leo, nên luôn phải đối mặt với nguy cơ lũ quét, sạt lở rất cao vào mùa mưa lũ. Nhưng giờ đây người dân trong bản không còn phải nơm nớp lo sợ, bởi khu tái định cư do Nhà nước đầu tư khang trang, đồng bào đã và đang bắt tay vào xây dựng cuộc sống mới.
  • Bắc Quang - Hà Giang: Nỗ lực giúp dân xóa nghèo bền vững
    Thực hiện Nghị quyết số 05-NQ/TU, ngày 1/11/2020 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Hà Giang về Chương trình cải tạo vườn tạp, phát triển kinh tế vườn hộ để tạo sinh kế cho người dân, giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021 - 2025, huyện Bắc Quang đã chủ động tuyên truyền, xây dựng kế hoạch và triển khai hiệu quả giúp hàng chục hộ dân xóa nghèo và vươn lên khá giả.
  • Sắc xanh xứ đạo xã Phú Sơn
    Bà con giáo xứ tại xã Phú Sơn, thị xã Nghi Sơn (Thanh Hóa) luôn nêu cao phương châm sống “tốt đời đẹp đạo”, tự giác nâng cao ý thức bảo vệ môi trường, giữ gìn vệ sinh đường làng, ngõ xóm.
  • Theo chân cán bộ kiểm lâm “cắm bản”
    (TN&MT) - Dọc theo những con đường đến với xã vùng biên Phiêng Pằn của huyện Mai Sơn (Sơn La), trên những quả đồi bạc màu, hoang hóa ngày nào, đang xanh lên màu xanh của những cánh rừng. Trong thành công ấy, có bóng dáng, sự nỗ lực quên mình của người kiểm lâm viên địa bàn ngày ngày “bám đất, bám rừng”.
  • Cây dược liệu- Cây xóa nghèo bền vững ở các huyện miền Núi
    Cùng với chính sách xóa đói, giảm nghèo của Chính phủ, trong những năm gần đây, Tỉnh ủy, UBND tỉnh Thanh Hóa đã đưa ra nhiều chương trình xóa đói, giảm nghèo cho bà con các huyện miền Núi. Trong những chương trình đó thì phát triển nguồn lực tại chỗ là một trong những thế mạnh của người dân như: Phát triển và bảo vệ rừng, trồng cây lâm nghiệp, nông nghiệp, trồng dược liệu… Nhờ đó, người dân vùng sâu, vùng xa Xứ Thanh đã thoát nghèo bền vững.
  • Lễ cầu mưa của dân tộc Hà Nhì
    (TN&MT) - Hàng năm từ 15/5 - 15/7 (âm lịch) người Hà Nhì ở Mường Nhé (Điện Biên) lại chuẩn bị cho Tết mùa mưa (Dế khù chà – theo tiếng Hà Nhì). Đây là dịp để người Hà Nhì cầu mong cho mưa thuận gió hòa, vụ mùa tốt tươi, con cháu họ được sum vầy hạnh phúc. Ngoài ý nghĩa tín ngưỡng tâm linh thì đó còn là thời điểm họ cảm tạ thần mưa đã dâng nước suối đủ tưới mát cây cối, ruộng đồng, không làm lũ ống, lũ quét... Cảm tạ đất trời đã che chở họ trong cả một năm qua.
  • Người Mạ giữ rừng vì giá trị truyền thống
    (TN&MT) - Nghề giữ rừng tại Vườn Quốc gia Tà Đùng (xã Đắk Som, huyện Đắk G’long) đã mang lại nguồn thu nhập cho các hộ đồng bào dân tộc thiểu số người Mạ từ khoản kinh phí từ dịch vụ môi trường rừng. Với đại đa số các hộ dân tại đây, giữ rừng không chỉ mang lại thu nhập mà còn là trách nhiệm với tổ tiên và các thế hệ mai sau bởi nghề rừng được xem như một nghề truyền thống.
  • Đồng bào Cơ Tu giữ rừng
    (TN&MT) - Ngàn đời nay, đồng bào Cơ Tu ở huyện Tây Giang (Quảng Nam) xem rừng như người Mẹ vĩ đại che chở mang lại sự sống cho dân làng. Chính từ sự ngưỡng vọng, tôn vinh, trân trọng ấy nên người dân Tây Giang luôn yêu quý, bảo vệ rừng.
  • Chính sách cấp nước sạch cho bà con dân tộc thiểu số
    (TN&MT) - Hiện nay, nhiều thôn bản vùng đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) và miền núi, điều kiện cơ sở hạ tầng còn rất khó khăn và thiếu thốn, đặc biệt là thiếu nguồn nước sạch cho sinh hoạt của người dân. Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021-2025 đã đưa vấn đề hỗ trợ nước sinh hoạt bao gồm hỗ trợ nước sinh hoạt phân tán và hỗ trợ nước sinh hoạt tập trung là một trong những trọng điểm.
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO